Thứ Sáu, 18 tháng 12, 2009

Trẻ nữ dậy thì sớm do đâu?

Ở châu Âu và Mỹ, người ta nhận thấy trong vòng 180 năm qua, tuổi dậy thì đang giảm đi với tốc độ 1-3 tháng trong mỗi 10 năm. Những năm gần đây, Tại Mỹ tuổi dậy thì của phái nữ là 8-13 tuổi còn phái nam là 9-14 tuổi. Ở nước ta chưa có thống kê về tuổi dậy thì và nhiều người thường căn cứ vào câu nói của ông bà xưa để lại: "nữ thập tam, nam thập lục" và cho rằng tuổi dậy thì của bé gái là 13 còn của bé trai là 16.

Nếu cho rằng ông bà ta ngày xưa ghi nhận tuổi dậy thì hơi trễ do quan sát những biểu hiện đã thật rõ nét của lứa tuổi này, cộng với tuổi dậy thì trải qua thời gian dài đã có giảm, tuổi dậy thì của bé gái ở nước ta phải từ 8 tuổi trở lên. Như vậy, dậy thì được cho là sớm khi bé gái “trổ mã” ở tuổi là 8 hoặc nhỏ hơn 8. Hiện nay ở nước ta, giống như nhiều nước trên thế giới, có hiện tượng bé gái dậy thì sớm đã xảy ra. Nhiều phụ huynh đã lo lắng viết thư đến các báo hỏi, cho biết có những bé gái khoảng 8 tuổi hoặc bé hơn đã dậy thì với các dấu hiệu phát dục như ngực nở to, có kinh nguyệt và thắc mắc nguyên nhân gây ra hiện tượng dậy thì sớm này.

Cho trẻ khám BS chuyên khoa nội tiết khi có biểu hiện dậy thì sớm.

Hiện tượng dậy thì sớm ở bé gái có thể do ba nguyên nhân.

Trước hết, do tự thân cơ thể bé gái có những rối loạn về mặt sinh dục đưa đến dậy thì sớm. Thí dụ như có bướu ở vùng dưới đồi hoặc ở tuyến tùng nằm ở não bộ, có thể gây tăng tiết estrogen sớm để làm dậy thì bé gái chưa đến tuổi 8. Nguyên nhân tự thân rối loạn có tính chất cá biệt và rất hiếm xảy ra. Chính 2 nguyên nhân còn lại là đáng quan tâm vì xuất phát từ môi trường và rối loạn có thể xảy ra cho một quần thể, gồm nhiều bé gái nữ do tiếp xúc với môi trường gây rối loạn.

Nguyên nhân thứ hai đã được ghi nhận là bé gái uống sữa bò, dùng các sản phẩm chế biến từ sữa bò, ăn thịt heo, gà bị nhiễm estrogen có thể đưa đến dậy thì sớm. Từ lâu và cho đến nay, trong chăn nuôi công nghiệp, người ta lạm dụng rất nhiều các chất gọi là “hormone tăng trưởng” nhằm để thúc các con vật nuôi phát triển. Trong các hormone tăng trưởng đó có estrogen hoặc các “tiền chất” có thể chuyển hóa thành estrogen. Những chất từ bên ngoài môi trường được đưa vào cơ thể con người hoạt động như estrogen được gọi là xenoestrogen. Bé gái chưa đến tuổi dậy thì nhưng lại tiếp xúc với xenoestrogen do tiêu thụ sản phẩm từ chăn nuôi công nghiệp sẽ có nguy cơ bị dậy thì sớm. Ta cần biết estrogen chính là một hormone sinh dục nữ (người nữ còn có hormone sinh dục thứ hai là progesteron). Cơ thể bé gái chưa dậy thì nhưng do tiếp xúc với xenoestrogen xem như có một lượng estrogen có trong cơ thể, estrogen này sẽ kích hoạt vùng dưới đồi và tuyến yên ở não tiết ra các hormone hướng dục (gonadotropins), đánh thức buồng trứng làm việc và làm xuất hiện sớm những hiện tượng đặc trưng của giới tính nữ. Đó là bé gái phát triển vú, sau đó mọc lông nách, lông trên xương mu và xuất hiện kinh nguyệt.

Nguyên nhân thứ ba cũng do từ môi trường. Cho đến nay đã có những chứng cứ xác đáng cho thấy bé gái dậy thì sớm do nhiễm các “dẫn chất phtalat”. Dẫn chất phtalat gồm nhiều chất hữu cơ như monobutyl phtalat (MBP), dibutyl phtalat (DBP), benzylbutyl phtalat (BZBP), diethylhexyl phtalat (DEHP), monomethyl phtalat (MMP)… Các dẫn chất phtalat thường được dùng làm chất hóa dẻo cho các bao bì nhựa như: chai, can, túi, bao, gói, đầu núm vú, bình sữa, trong đồ chơi trẻ em bằng chất dẻo, nhựa… Trong quá trình sử dụng các sản phẩm vừa kể, các dẫn chất phtalat bị trôi ra và theo đường tiêu hóa vào trong cơ thể con người. Trẻ em dùng bình sữa, bát nhựa, đồ chơi bằng nhựa có chứa hàm lượng cao các phtalat sẽ có nguy cơ bị nhiễm chất này. Tác hại của các dẫn chất phtalat là làm xáo trộn nội tiết và bé gái bị nhiễm phtalat sẽ dậy thì sớm trước tuổi. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Gần đây nhất là công trình nghiên cứu của Chou YY và cộng sự thực hiện tại Khoa Y, Đại học Quốc Gia Chen Kung Đài Loan vào năm 2009. Nghiên cứu trên 30 bé gái dậy thì sớm so với 33 bé gái bình thường cho thấy, trong nước tiểu bé gái dậy thì sớm chứa lượng monomethyl phtalat (MMP) cao hơn nhiều so với bé gái bình thường và kết luận MMP có thể là một nguyên nhân môi trường gây dậy thì sớm ở bé gái Đài Loan (Phtalat exposure in girls during early puberty, J Pediatr Endocrinol Metab. 2009; 22(1): 69-77).

Cũng vì tác hại của dẫn chất phtalat nên hiện nay, Nghị viện châu Âu không cho phép dùng DBP và DEHP có trong đồ chơi trẻ em và cả trong mỹ phẩm. Đối với chúng ta nên dùng cẩn thận các sản phẩm nhựa dẻo như PVC vì có thể chứa các dẫn chất phtalat. Không nên chế biến thức ăn quá nóng trong các tô chén, bao bì bằng nhựa mà nên thay bằng vật đựng bằng sứ (nhiệt độ quá nóng các phtalat dễ trôi ra). Dùng lá chuối hoặc giấy làm bao bì thay vì dùng bao bì bằng nhựa, plastic là tốt hơn xét về vấn đề bảo vệ môi trường. Các bậc phụ huynh lưu ý, nếu thấy các bé gái con em mình có biểu hiện dậy thì sớm nên đưa bé đến khám ở bác sĩ nội tiết để có hướng xử trí. Bởi vì dậy thì sớm với sự hiện diện estrogen có những tác dụng bất lợi, trong đó ức chế sự tăng trưởng sụn đầu xương ảnh hưởng đến chiều cao và đặc biệt, tâm lý bé có thể bị rối loạn ảnh hưởng đến tương lai của bé.

PGS.TS.DS. NGUYỄN HỮU ĐỨC-Suckhoedoisong

Trẻ sốt mức nào thì cần đi khám?

Với trẻ dưới 3 tháng tuổi, chỉ cần bị sốt quá 38 độ C là bạn đã nên đưa bé đến bác sĩ khám, sẽ tốt hơn là tự giảm sốt.

Với trẻ lớn hơn, ngưỡng thân nhiệt cần lưu ý có tăng hơn một chút: Trẻ 3 đến 6 tháng tuổi nếu sốt từ 38,5 độ C trở lên, bạn nên mang bé đến bác sĩ. Còn với trẻ 6 đến 12 tháng tuổi, thân nhiệt vượt quá 39,5 độ C cũng là lúc cha mẹ cần đưa đi khám.

sot.jpg

Nếu bé sốt dưới ngưỡng trên và vẫn ăn uống, sinh hoạt bình thường thì có nghĩa là bé không bị nguy hiểm, bạn không cần làm gì để giảm thân nhiệt, bởi vì một cơn sốt có thể sẽ giúp bé chống lại sự nhiễm trùng. Nếu bạn lo lắng, có thể hỏi ý kiến bác sĩ xem có thể dùng thuốc hạ sốt không.

Nếu thuốc hạ sốt không phải là sự lựa chọn của bạn vì bé không thích hợp với thuốc này, bạn có thể tắm cho con bằng nước ấm để giúp hạ sốt. Nhưng phải lưu ý là tắm trong nước ấm vừa, không quá lạnh vì nước lạnh sẽ làm trẻ run, làm tăng thêm thân nhiệt.

Lưu ý: Việc quấn tã chặt hay mặc quá nhiều quần áo cũng có thể làm cơ thể bé tăng nhiệt độ. Vì vậy nếu bạn muốn hạ sốt cho bé thì nên khắc phục điều này.

Theo Gia đình

Phòng chống bệnh tăng huyết áp - Giảm gánh nặng bệnh tật

1.1. Tình hình tăng huyết áp (THA) và quản lý huyết áp trên thế giới:

- THA là một bệnh mạn tính phổ biến nhất trên thế giới. THA không chỉ có ảnh hưởng lớn đến gánh nặng bệnh lý tim mạch mà cũng có ảnh hưởng nhiều đến gánh nặng bệnh tật toàn cầu. Theo tài liệu của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), HA là một trong sáu yếu tố nguy cơ chính ảnh hưởng tới phân bố gánh nặng bệnh tật toàn cầu.

- Tần suất THA trong cộng đồng ngày càng gia tăng và hiện tại đang ở mức rất cao, đặc biệt ở các nước phát triển. Tại các nước đang phát triển có hình thái bệnh tật chuyển đổi từ các bệnh nhiễm trùng là chủ yếu sang các bệnh không lây truyền là chính. Tần suất THA là 28,7% ở Hoa Kỳ (2000); 22% ở Canada (1992); 45,9% ở CuBa; 38,8% ở Anh (1998); 38,4% ở Thụy Điển (1999); 26,3% ở Ai Cập (1991); 15,4% ở Cameroon (1995); 27,2% ở Trung Quốc (2001); 20,5% ở Thái Lan (2001); 26,6% ở Singapore (1998)...

GS.TS. Nguyễn Lân Việt tại Hội nghị triển khai Dự án phòng chống bệnh tăng huyết áp.

- Năm 1991, Hoa Kỳ có khoảng trên 50 triệu người bị THA, chiếm tỷ lệ trên 30% trong số người lớn >18 tuổi. Chi phí trực tiếp hoặc gián tiếp cho điều trị, chăm sóc bệnh nhân THA hàng năm tới trên 259 tỷ đô la Mỹ. Từ những năm 70, Chính phủ Hoa Kỳ và các cơ quan chức năng đã sớm đề xuất và thực hiện các biện pháp can thiệp cho THA và kết quả là họ đã làm giảm đáng kể tỷ lệ mắc bệnh (morbidity) cũng như tỷ lệ tử vong (mortality) do các bệnh tim mạch có liên quan đến THA. Từ năm 1970 - 1994, nhờ các chương trình can thiệp và quản lý các yếu tố nguy cơ và THA nên tỷ lệ tử vong do tai biến mạch não đã giảm được 50 - 60% và tỷ lệ tử vong do các bệnh động mạch vành cũng giảm khoảng 40 - 50%.

- Tại Trung Quốc, từ năm 1991 - 2000, Bộ Y tế đã tiến hành chương trình quản lý đái tháo đường và THA tại cộng đồng của 3 thành phố lớn là Bắc Kinh, Thượng Hải và Quảng Châu. Kết quả của điều tra sức khỏe năm 2001 cho thấy tỷ lệ phát hiện sớm THA tăng từ 26,3% lên 44,7%; tỷ lệ người dân bị THA được điều trị tăng từ 12,1% lên 28,2% và tỷ lệ kiểm soát được huyết áp về bình thường tăng từ 2,8% lên 8,1%. Các biến chứng do THA gây ra cũng giảm đáng kể trong chương trình này: tỷ lệ mới mắc tai biến mạch máu não giảm được 52% ở nam giới và 53% ở nữ giới; tỷ lệ tử vong chung do đột quỵ cũng giảm được 54%. Năm 1995, Chính phủ Trung Quốc phối hợp với Tổ chức Y tế Thế giới và Ngân hàng Thế giới tiến hành chương trình Tuyên truyền giáo dục và dự phòng bệnh không lây nhiễm giai đoạn 1996 - 2002 tại 7 thành phố lớn nhất của Trung Quốc bao gồm khoảng 90 triệu dân. Kết quả cho thấy chương trình này đã giúp làm giảm tỷ lệ người lớn hút thuốc lá từ 29% xuống còn 13%; tăng tỷ lệ người dân có thói quen tập luyện thể dục thường xuyên từ 41% lên 84%; tăng tỷ lệ phát hiện sớm THA thêm 15%; giảm được 50% tỷ lệ bị các biến chứng về tim mạch và đột quỵ ở người dân có THA.

- Năm 1980, tỷ lệ THA của người dân lớn hơn hoặc bằng 20 tuổi ở Israel là khoảng 28,6%. Và từ những năm 80 này, Chính phủ Israel đã tiến hành các chương trình phát hiện sớm và kiểm soát THA trên phạm vi toàn quốc (AHDCP: Ashkelon Hypertension Detection and Control Program và The Israel Blood Pressure Control program (IBPCP). Đây là chương trình kết hợp giữa tuyên truyền, giáo dục cộng đồng nhằm nâng cao hiểu biết của người dân, thực hiện lối sống lành mạnh dự phòng THA và điều trị bằng các thuốc hạ huyết áp cho những người bị THA. Kết quả sau 20 năm cho thấy tỷ lệ kiểm soát được huyết áp về mức bình thường tăng từ 29% lên 46,7%; tỷ lệ nhồi máu cơ tim cấp và đau thắt ngực không ổn định do THA giảm được16%; tỷ lệ tai biến mạch máu não do THA giảm được 41,2%; tỷ lệ suy thận giai đoạn cuối do THA giảm 50%. Chương trình đã cứu sống được 2.242 người (trung bình 110 người/năm). Cũng qua các chương trình quản lý THA này, ngành y tế đã tiết kiệm được cho Chính phủ Israel 185 triệu USD, tức là khoảng 9,25 triệu USD/năm.

1.2. Tình hình THA và quản lý huyết áp tại Việt Nam:

- Tỷ lệ THA tại Việt Nam đang ngày càng gia tăng. Theo thống kê của GS. Đặng Văn Chung năm 1960, tần suất THA ở người lớn phía Bắc Việt Nam chỉ là 1% và hơn 30 năm sau (1992), theo điều tra trên toàn quốc của Trần Đỗ Trinh và cộng sự thì tỷ lệ này đã là 11,7%, tăng lên hơn 11 lần và mỗi năm tăng trung bình 0,33%. Và 10 năm sau (2002), theo điều tra dịch tễ học THA và các yếu tố nguy cơ tại 4 tỉnh phía Bắc Việt Nam ở người dân lớn hơn hoặc bằng 25 tuổi thì tần suất THA đã tăng đến 16,3%, trung bình mỗi năm tăng 0,46%. Như vậy, tốc độ gia tăng về tỷ lệ THA trong cộng đồng ngày càng tăng cao. Tỷ lệ THA ở vùng thành thị là 22,7%, cao hơn vùng nông thôn (12,3%). Với dân số hiện nay khoảng 84 triệu người (2007), Việt Nam ước tính có khoảng 6,85 triệu người bị THA, nếu không có các biện pháp dự phòng và quản lý hữu hiệu thì đến năm 2025 sẽ có khoảng 10 triệu người Việt Nam bị THA.

- Có nhiều yếu tố nguy cơ dẫn đến bệnh THA trong cộng đồng như: tuổi cao, hút thuốc lá, uống nhiều rượu/bia, khẩu phần ăn không hợp lý (ăn mặn, ăn nhiều chất béo), ít hoạt động thể lực, béo phì, căng thẳng trong cuộc sống, rối loạn lipid máu, tiểu đường, tiền sử gia đình có người bị THA... Phần lớn những yếu tố nguy cơ này có thể kiểm soát được khi người dân có hiểu biết đúng và biết được cách phòng tránh. Nhưng theo điều tra dịch tễ năm 2002 của Viện Tim mạch Việt Nam, 77% người dân hiểu sai về bệnh THA và các yếu tố nguy cơ của bệnh; hơn 70% các trường hợp không biết cách phát hiện sớm và dự phòng bệnh THA. Hiểu biết của người dân về bệnh THA ở nông thôn kém hơn hẳn ở thành thị.

- Các biến chứng của THA là rất nặng nề như tai biến mạch máu não, nhồi máu cơ tim, suy tim, suy thận, mù lòa... Những biến chứng này có ảnh hưởng lớn đến người bệnh, gây tàn phế và trở thành gánh nặng về tinh thần cũng như vật chất của gia đình bệnh nhân và xã hội.

Nguyễn Văn Đăng và cộng sự thuộc Bộ môn Thần kinh trường Đại học Y Hà Nội đã điều tra 1.707.609 người dân và cho thấy THA là nguyên nhân chính (chiếm 59,3% các nguyên nhân) gây ra tai biến mạch máu não (TBMMN). Theo niên giám thống kê của Bộ Y tế, tỷ lệ mắc TBMMN là 47,6/100.000 dân. Như vậy, hàng năm có khoảng 39.980 ca bị TBMMN và chi phí trực tiếp để điều trị bệnh này là 144 tỷ VND/năm trong đó hậu quả do THA gây ra là 85,4 tỷ VND. Có khoảng 15.990 người bị liệt, tàn phế, mất sức lao động do TBMMN/năm.

Theo điều tra dịch tễ học suy tim và một số nguyên nhân chính tại các tỉnh phía Bắc Việt Nam năm 2003 do Viện Tim mạch Việt Nam phối hợp với Tổ chức Y tế Thế giới thực hiện cho thấy nguyên nhân hàng đầu gây suy tim tại cộng đồng là do THA (chiếm 10,2%), sau đó là do bệnh van tim do thấp (0,8%).

Ở nước ta cho đến nay, chúng ta vẫn chưa có hệ thống quản lý và dự phòng đối với bệnh THA, các hoạt động y tế hiện mới chỉ tập trung cho công tác điều trị bệnh tại các bệnh viện. Chưa có mô hình dự phòng, ghi nhận và quản lý bệnh THA tại cộng đồng. Công tác tuyên truyền bệnh THA tại cộng đồng chưa sâu rộng, các hoạt động điều tra dịch tễ, đào tạo cán bộ cho công tác phòng chống THA tại cơ sở còn rất hạn chế. Ngân sách đầu tư cho công tác quản lý THA tại cộng đồng cũng còn khá khiêm tốn.

2. Mục tiêu dự án

2.1. Mục tiêu chung:

Nâng cao nhận thức đúng của nhân dân về bệnh THA và các yếu tố nguy cơ; Tăng cường năng lực của nhân viên y tế trong công tác dự phòng, phát hiện sớm và điều trị đúng bệnh THA theo phác đồ do Bộ Y tế quy định.

2.2. Mục tiêu cụ thể:

a. Nâng cao nhận thức của nhân dân về dự phòng và kiểm soát bệnh THA. Phấn đấu đạt chỉ tiêu 50% người dân hiểu đúng về bệnh THA và các biện pháp phòng, chống bệnh THA.

b. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực làm công tác dự phòng và quản lý bệnh THA tại tuyến cơ sở. Phấn đấu đạt chỉ tiêu 80% cán bộ y tế hoạt động trong phạm vi dự án được đào tạo về biện pháp dự phòng, phát hiện sớm, điều trị và quản lý bệnh THA.

c. Xây dựng, triển khai và duy trì bền vững mô hình quản lý bệnh THA tại tuyến cơ sở.

d. Phấn đấu đạt chỉ tiêu 50% số bệnh nhân THA được phát hiện sẽ được điều trị đúng theo phác đồ do Bộ Y tế quy định.

3. Giải pháp:

3.1. Giải pháp về chuyên môn, nghiệp vụ:

3.1.1. Chương trình tuyên truyền về bệnh THA cho cộng đồng:

Biên soạn các bản tin về bệnh THA và phát thanh hàng tháng trên loa phóng thanh: Bản tin được phát hàng tuần trong 1 tháng đầu tiên, sau đó được phát lại mỗi tháng một lần trong suốt thời gian thực hiện dự án. Mỗi lần phát thanh, thời gian là từ 5 - 10 phút. Nội dung của bản tin tập trung vào tuyên truyền, giáo dục thay đổi lối sống và thực hiện lối sống lành mạnh để dự phòng bệnh THA.

Biên soạn, in ấn các tờ rơi tuyên truyền về bệnh THA phát cho các hộ gia đình: Tờ rơi có 1 trang, dễ hiểu, có nội dung gồm THA là gì, những yếu tố nguy cơ của THA, cách phòng bệnh THA, những biến chứng của THA, các biện pháp theo dõi và quản lý THA.

Bảng tuyên truyền: Các bảng tuyên truyền về THA được đặt tại các vị trí công cộng như trạm y tế xã, ủy ban nhân dân xã, hội trường thôn/xóm, chợ, trường học... với nội dung bao gồm: Hãy điều trị THA; Hãy phòng bệnh THA, THA là kẻ giết người thầm lặng.

Tổ chức các buổi nói chuyện và tư vấn về THA tại các cơ quan và các tổ chức xã hội tại cộng đồng. Các buổi hội thảo, nói chuyện được tổ chức tại cộng đồng với sự hợp tác của các tổ chức xã hội như Hội người cao tuổi, Hội cựu chiến binh, Hội phụ nữ, Đoàn TNCS, Hội nông dân, trường học...

Phối hợp với Đài Truyền hình Việt Nam, kênh truyền hình O2 và Đài Tiếng nói Việt Nam xây dựng các chương trình tuyên truyền về bệnh THA, các biện pháp dự phòng và điều trị thông thường bệnh THA trên các chương trình của đài truyền hình và đài phát thanh trong phạm vi toàn quốc.

Phối hợp với Đài truyền hình địa phương và Đài phát thanh địa phương của 63 tỉnh/thành trong cả nước xây dựng các chương trình tuyên truyền về bệnh THA, các biện pháp dự phòng và điều trị thông thường bệnh THA và phát thanh tuyên truyền tại chính các địa phương.

3.1.2. Chương trình giáo dục, tập huấn về bệnh THA, cách dự phòng và quản lý bệnh cho nhân viên y tế từ trung ương đến địa phương:

Chương trình sẽ được tiến hành trên phạm vi cả nước cho nhân viên y tế ở 63 tỉnh/thành, 650 huyện và hơn 10.750 xã có tham gia vào dự án. Nội dung giáo dục, tập huấn gồm:

- Giáo dục cho các nhân viên y tế ở trung ương và địa phương những hiểu biết chính về bệnh THA và các hậu quả của bệnh.

- Hướng dẫn cách đo huyết áp đúng và các biện pháp phát hiện sớm và ghi nhận bệnh THA cho nhân viên y tế từ các tuyến trung ương đến tuyến cơ sở.

- Hướng dẫn về cách thay đổi lối sống và thực hiện lối sống lành mạnh trong dự phòng và điều trị bệnh THA.

- Tập huấn cho các cán bộ y tế chuyên trách của 63 tỉnh/thành và của hơn 650 huyện trên cả nước về mô hình dự phòng và quản lý bệnh THA tại cộng đồng.

- Phối hợp cùng cán bộ y tế chuyên trách của các tỉnh/thành và các huyện thực hiện tập huấn cho các nhân viên y tế tuyến xã (hơn 10.750 xã) về mô hình dự phòng và quản lý bệnh THA tại cộng đồng.

- Tổ chức các hội thảo quốc gia hoặc các khu vực Bắc, Trung, Nam về các biện pháp dự phòng, cách phát hiện sớm và điều trị đúng bệnh THA cho các nhân viên y tế cơ sở.

- Tập huấn về giám sát các hoạt động dự phòng và quản lý THA tại cộng đồng cho các cán bộ chuyên trách ở cả Trung ương và các địa phương.

- Kết hợp với các chuyên gia quốc tế về bệnh THA của các dự án khác như Dự án hợp tác với Tổ chức Y tế Thế giới, Dự án Phòng chống các bệnh không lây nhiễm (NCD) để tổ chức các lớp tập huấn nâng cao năng lực quản lý bệnh THA tại cộng đồng cho các cán bộ y tế của Trung ương và địa phương.

- Gửi các cán bộ phụ trách chuyên trách đi học tập kinh nghiệm và cập nhật các vấn đề liên quan đến dự phòng và quản lý bệnh THA tại cộng đồng ở các nước bạn trong khu vực Đông Nam Á và ở các nước tiên tiến.

3.1.3. Xây dựng và triển khai mô hình dự phòng và quản lý bệnh THA tại cộng đồng:

- Xây dựng mô hình dự phòng và quản lý bệnh THA tại cộng đồng.

+ Khảo sát tình hình bệnh THA (hiểu biết, yếu tố nguy cơ, tỷ lệ mắc bệnh... tại cộng đồng tham gia dự án).

+ Thực hiện theo dõi dọc theo thời gian, đo huyết áp định kỳ (1 lần/tháng), đánh giá các yếu tố nguy cơ của từng bệnh nhân, tư vấn về thực hiện lối sống lành mạnh để phòng và chống THA, phát thuốc điều trị THA định kỳ cho bệnh nhân cần điều trị thuốc.

+ Thành lập các câu lạc bộ THA: Các bệnh nhân THA được mời tham gia vào câu lạc bộ THA tại cộng đồng. Câu lạc bộ sẽ sinh hoạt một lần hàng tháng, nội dung thảo luận chủ yếu tập trung vào thay đổi lối sống trong điều trị THA. Tư vấn và trao đổi trực tiếp giữa bệnh nhân và các chuyên gia tim mạch về dự phòng và điều trị đúng bệnh THA.

- Tiến hành thực hiện thí điểm mô hình dự phòng và quản lý bệnh THA tại một số tỉnh ở các khu vực khác nhau (Bắc, Trung, Nam).

- Hội thảo đánh giá và rút kinh nghiệm việc thực hiện thí điểm mô hình dự phòng và quản lý bệnh THA tại cộng đồng.

- Hoàn thiện mô hình chuẩn về mô hình dự phòng và quản lý bệnh THA tại cộng đồng.

- Triển khai trên phạm vi toàn quốc mô hình dự phòng và quản lý bệnh THA tại cộng đồng.

GS.TS. Nguyễn Lân Việt đang hướng dẫn bác sĩ nội trú thăm khám bệnh nhân.

3.1.4. Xây dựng hệ thống giám sát các hoạt động dự phòng và quản lý bệnh THA tại các tuyến Trung ương, tỉnh, huyện và xã.

3.1.5. Xây dựng hệ thống sàng lọc, phát hiện sớm và ghi nhận về bệnh THA tại cộng đồng, chủ yếu là tại các tuyến xã (phường) sau đó gửi báo cáo lên tuyến huyện (quận), tỉnh (thành phố) và Trung ương.

3.1.6. Thực hiện lồng ghép các hoạt động dự phòng và quản lý THA tại cộng đồng với hoạt động của chương trình phòng chống các bệnh không lây nhiễm, chương trình phòng chống bệnh đái tháo đường, ung thư...

3.2. Giải pháp về cơ chế chính sách:

- Xây dựng các chính sách và cơ chế hoạt động trong lĩnh vực dự phòng và quản lý bệnh THA tại cộng đồng.

- Xây dựng chính sách cho người bệnh bị THA, như chế độ làm việc, nghỉ ngơi, đặc biệt là thuốc điều trị lâu dài cho bệnh nhân.

- Xây dựng cơ chế thực hiện các hoạt động của dự án trong đó có sự tham gia liên ngành, liên tỉnh, liên ủy ban... giúp cho việc điều phối và thực hiện dự án được thuận lợi.

- Xây dựng cơ chế hoạt động lồng ghép của các thành phần trong chương trình phòng chống các bệnh không lây nhiễm để tiết kiệm nguồn nhân lực, vật lực.

- Xây dựng cơ chế va chính sách xã hội hoá công tác phòng chống bệnh THA cho cả các đơn vị y tế bán công và tư nhân.

3.3. Giải pháp về tổ chức:

- Thành lập Ban chỉ đạo dự án có sự tham gia của Bộ Y tế, Viện Tim mạch Việt Nam, UBND và sở y tế các tỉnh, thành trong cả nước.

- Các hoạt động chuyên môn tim mạch trong dự án sẽ được sự tư vấn và giúp đỡ của Hội Tim mạch học Việt Nam, Viện Tim mạch Việt Nam.

- Dự án hoạt động có Ban Điều hành dự án, Thư ký dự án với đơn vị thực hiện ở tuyến Trung ương là Viện Tim mạch Việt Nam, các đơn vị thực hiện dự án ở địa phương là sở y tế, phòng y tế, bệnh viện đa khoa tỉnh, TTYT huyện (quận), phòng y tế huyện (quận), các trạm y tế xã (phường).

- Đơn vị trực tiếp thực hiện các hoạt động của dự án tại cộng đồng là các trạm y tế xã dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Điều hành dự án của các tỉnh, huyện với sự hướng dẫn chuyên môn của Ban điều hành dự án Trung ương.

3.4. Giải pháp về hợp tác quốc tế:

Tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế, mở rộng các hợp tác trao đổi về chuyên môn, kỹ thuật, cử cán bộ có đủ năng lực về chuyên môn và ngoại ngữ đi học tập kinh nghiệm và nâng cao năng lực chuyên môn về dự phòng và quản lý bệnh THA ở các nước trong khu vực Đông Nam Á và các nước tiến tiến trên thế giới.

Dự án quốc gia Phòng chống bệnh tăng huyết áp - Viện Tim mạch Việt Nam

GS.TS. Nguyễn Lân Việt-Suckhoedoisong

Tần số giao hợp

Nhiều người muốn có một trả lời chính thức đáng tin cậy được đúc kết từ các nghiên cứu khoa học hay từ các tài liệu trong cổ thư về tần số giao hợp. Những nghiên cứu y học hiện nay cho thấy hoạt động tình dục là nhu cầu cơ bản trong suốt đời người. Nó không những làm giảm đi những căng thẳng, thỏa mãn nhu cầu sinh lý của họ mà còn có tác dụng an ủi quan tâm lẫn nhau về mặt tinh thần giữa vợ chồng.

Trong tác phẩm Tố Nữ kinh, Hoàng Đế hỏi Tố Nữ rằng: “Nay ta muốn ngưng việc giao hợp một thời gian dài rồi trở lại có được không? Nguyên tắc tiết độ trong việc nam nữ giao hợp là gì?”.

Tố Nữ đáp: “Không nên, trời đất có hiện tượng đóng mở, khí âm, khí dương có hiện tượng thi hóa… Nếu ngưng giao hợp thì tinh khí không tuần hoàn, cái đạo âm dương bị cắt đứt… cái yếu tố căn bản của giao hợp là: an định cái háo hức, tâm trạng hứng thú, tinh thần sung mãn.

Ảnh minh họa.
Vì thế hoạt động tình dục điều độ, thích hợp sẽ mang lại niềm vui tinh thần, thỏa mãn về mặt tâm lý cho người lớn tuổi, có ý nghĩa rất tích cực trong cuộc sống của họ. Vậy không phải “vô dục tắc trường thọ” mà phải là “tình dục thích hợp sẽ trường thọ”.

Tần số giao hợp

Trong dân gian thường có câu ví von về đêm tân hôn: “đêm bảy ngày ba, vô ra không kể” để nói lên tần số này. Nhưng trong tác phẩm Tố Nữ kinh cho chuyện như sau:

Hoàng Đế hỏi: “Nguyên tắc giao hợp theo Tố Nữ là ái tinh, thương quý cái tinh khí của mình, mà tránh xuất tinh, vậy thời khi muốn có con thì phải làm như thế nào?”. Tố Nữ đáp: “Người ta thân thể cường nhược khác nhau, niên tuế cũng trẻ già khác nhau cho nên người ta phải tùy theo khí lực của mình mà giao hợp, không được cưỡng quyết, cưỡng quyết tất tổn hại đến thân.

Tốt nhất là:

- Ở vào tuổi 15 mà khí lực dồi dào mỗi ngày giao hợp và có thể xuất tinh 2 lần, ốm yếu thì mỗi ngày 1 lần thôi.

- Ở tuổi 20 cũng vậy, không nên nhiều hơn, nghĩa là mạnh mẽ thì 1 ngày 2 lần, trong mình không được khỏe thì mỗi ngày 1 lần.

- Ở tuổi 30 mà khỏe mỗi ngày 1 lần, người ốm yếu thì 2 ngày một lần.

- Ở tuổi 40 mà khỏe mạnh thì 3 ngày 1 lần, người ốm yếu thì 4 ngày 1 lần.

- Ở tuổi 50 thì 5 ngày 1 lần nếu khỏe mạnh, ốm yếu thì 10 ngày 1 lần.

- Ở tuổi 60 mà khỏe mạnh thì cỡ 10 ngày 1 lần, ốm yếu thì 20 ngày 1 lần.

- Ở tuổi 70 mà khỏe mạnh thì mỗi tháng 1 lần, ốm yếu thì nên kiêng cữ không nên xuất tinh.

Sách Ngọc phòng bí kiếp có ghi như sau: người ở tuổi 20 thường 2 ngày giao hợp 1 lần, người ở tuổi 30 thường 3 ngày giao hợp 1 lần, người ở tuổi 40 thường 4 ngày giao hợp 1 lần, người ở tuổi 50 thường 5 ngày giao hợp 1 lần, người ở tuổi 60 thì không nên xuất tinh.

Các sách về thuật phòng trung có: Ngọc phòng bí kiếp, Thiên kim phương, Ngự nữ chi pháp, Tố Nữ chi pháp, các con số nói trên đều tương tự như nhau. Sách Dưỡng danh huấn của ông Bố Nguyên Ích Hiên cho rằng: một đời người chỉ được phép giao hợp tối đa là 1.800 lần mà thôi...

Một công thức có tính cách tượng trưng :

Số tuổi tròn nhân cho 9 = XY.

Số tuổi tròn của 20 đến 29 là 2.

Số tuổi tròn của 30 đến 39 là 3.

Số tuổi tròn của 60 đến 69 là 6…

X: số tuần.

Y: số lần giao hợp.

Ví dụ:

- Một người ở tuổi 20 (số tròn là 2) 2 X 9 = XY (18) 18 : gồm có 1 (X) và 8 (Y) Như vậy một tuần giao hợp 8 lần.

- Một người ở tuổi 60 (số tròn là 6) 6 X 9 = XY (54)

18 : gồm có 5 (X) và 4 (Y)

Như vậy 5 tuần giao hợp 4 lần.

Theo nghiên cứu của chúng tôi thì khảo sát 50 người đàn ông ở tuổi 65 có một cuộc sống và sinh hoạt bình thường: họ có 6.000 lần thủ dâm ở tuổi từ 15-25 tuổi và 14.500 lần giao hợp. (6.000 lần cho 10 năm từ 25-35 tuổi, trung bình một ngày giao hợp 2 lần, 4.000 lần cho 10 năm từ 35-45 tuổi, trung bình một ngày rưỡi giao hợp 2 lần, 3.000 lần cho 10 năm từ 45-55 tuổi trung bình gần 1 ngày giao hợp gần 1 lần và 1.500 lần cho 10 năm từ 55-65 tuổi).

Và khi khảo sát với 40 phụ nữ thì tần số giao hợp thích hợp đối với họ chỉ vào khoảng 70% so với đàn ông.

Đặt biệt các bà sau khi hết kinh 4 năm hay sau 60 tuổi thì họ không còn hứng thú trong việc ân ái, vì thế tần số giao hợp chỉ còn 240 lần trong 10 năm cuối, chỉ tương đương 1/6 so với đàn ông cùng tuổi.

Tần số giao hợp mà chúng tôi đề cập chỉ có tính cách tham khảo, thực sự số lần giao hợp của một người có thể cao hoặc thấp hơn. Chúng ta nên theo lời khuyên của người xưa: “Người ta thể trạng mạnh yếu khác nhau, tuổi tác, già trẻ cũng khác nhau, nhu cầu tình dục cũng khác nhau cho nên phải tùy theo khí lực của mình mà giao hợp, không nên bắt ép thân thể mình làm quá sức chịu đựng của nó, bắt ép tất tổn hại đến sức khỏe”.

BS. HỒ ĐẮC DUY-Suckhoedoisong

Để đạt được cực khoái trong tình dục

Chuyện chăn gối vợ chồng, hay nói cách khác sinh hoạt tình dục là “món quà” đẹp nhất mà tạo hóa đã ban tặng cho con người, là một nhu cầu sinh lý tự nhiên và tất yếu của con người, nhằm duy trì giống nòi, chính nhu cầu tự nhiên này đã giúp con người tìm đến với nhau qua tình dục bằng tình cảm, đam mê và thích thú, trong đó ở nữ giới đại diện cho sự đam mê đó chính là cực khoái (CK). Vì vậy, để đạt được CK cho người bạn tình, nam giới cần có phải kiến thức nhất định về tình dục, để tạo nên một cuộc sống tình dục có trách nhiệm, lành mạnh và có chất lượng.

Thế nào là CK

CK là một cảm giác thích thú của thể xác, cao cấp nhất của loài người, bằng sự kích thích trực tiếp hoặc gián tiếp các vùng trọng yếu trong quá trình sinh hoạt tình dục. Có 2 loại CK, đó là CK nông và CK sâu. CK nông hay còn gọi là CK âm vật - cửa âm đạo, bằng sự kích thích âm vật trực tiếp và gián tiếp qua môi lớn - môi bé và các vùng lân cận, với cường độ thật nhẹ nhàng, liên tục và tăng dần, người nữ có cảm giác lâng lâng thích thú khó tả. Để đạt được CK này, người nữ phải tập trung cao độ, chú ý lên phần âm vật, nằm im, duỗi thẳng chân, chỉ cần một lơ đễnh là sẽ không thành công, sự kích thích lên âm vật nhẹ nhàng, liên tục, kéo dài sẽ kết thúc bằng sự co thắt ngoài ý muốn của nền âm đạo. Cơn CK này đã được 2 nhà nghiên cứu Masters–Johnson đánh giá cao và đưa ra định nghĩa, đó là: “Sự đột nhiên ý thức của miền khoái cảm tình dục, khu trú trong vùng âm vật nhưng lan tỏa lên phía trên, tới vùng xương chậu”, đó là bước thứ nhất; bước thứ hai được Masters-Johnson xác định: “ Một cảm giác nóng bừng lan tỏa đi từ khung chậu ra khắp người” và bước thứ ba: “Âm hộ và các bộ phận sinh dục trong khu vực rung lên nhè nhẹ. Đó là những co thắt bất giác và kèm theo những cảm giác tràn đầy hạnh phúc. Số rung động này từ 3 đến 12 đợt, tùy theo chất lượng và cường độ khoái cảm lúc đạt đỉnh điểm; nếu từ 2 đến 5 nghĩa là khoái cảm trung bình, nếu từ 6 đến 12 là khoái cảm cực độ, người phụ nữ hoàn toàn thỏa mãn”. Giai đoạn co thắt này mỗi cơn cách nhau khoảng 0,8 giây, lỗ cổ tử cung hé mở để tiếp nhận tinh trùng và trở lại bình thường sau 30 phút.

CK sâu, còn gọi là CK của điểm G, xuất hiện sau nhiều phút kích thích, để đạt được CK này thường được kích thích bằng dương vật hay bằng tay, tạo sức ép lên vùng Fascia de halban (tương đương điểm G). Điểm G được đặt theo tên của bác sĩ sản khoa người Đức tên là Grafenberg, người đã mô tả điểm này vào năm 1950, cho một vùng nhạy cảm còn gọi vùng Fascia de halban. Điểm G hay Grafenberg’s spot điểm này thật nhỏ kích thước bằng hạt đậu, khi được kích thích có thể dãn rộng bằng ngón tay (khoảng 2cm), nằm ngay mặt trước thành âm đạo, ở vào khoảng 3-5cm tính từ lối âm đạo vào.

Có hai tư thế để đạt được CK sâu:

- Người nữ nằm ngửa, đùi gập lại, cẳng chân giơ lên, người nam đưa dương vật vào ở tư thế quỳ.

- Người nữ nằm phía trên, hơi ngửa ra phía sau giữa hai đùi của chồng và chủ động tạo kích thích cho đến khi đạt CK.

CK sâu thường có cảm giác nhanh, gay gắt, ngay lập tức khi kích thích đúng lúc và có cảm giác như phóng một ít dịch, và cảm giác buồn tiểu sau CK, đặc biệt CK này nhanh chóng đáp ứng với những lần kích thích tiếp theo, còn CK âm vật sau đáp ứng người nữ có cảm giác mệt và phục hồi chậm hơn. Những tiêu chuẩn khách quan đạt được CK ở nữ: màu đỏ giới tính biểu lộ rõ ở mặt, ở lồng ngực, sau đó mờ dần. Toát nhẹ mồ hôi từ vai đến đùi, sự cương cứng núm vú, khi cương cứng núm vú và vòng thẩm màu bao quanh núm vú xẹp xuống báo hiệu CK đã hết; trong đó sự cương cứng núm vú là “nhân chứng” tốt để đánh giá mức độ đạt được CK.

Các bước để đạt được CK

Phương Tây có câu: “ Nhứt lưỡi, nhì râu, tam tay, tứ nó”, còn theo tác giả thì “Nhất lưỡi, nhì tay, tam qui, tứ củ”.

Tất cả đều theo nguyên tắc là “nhẹ nhàng, liên tục và tăng dần”, nếu trường hợp người nữ chưa tiết dịch đủ để tạo cảm giác, thì nam giới cần chủ động hỗ trợ thêm chất bôi trơn như KY, nhất là động tác tay - âm vật hay củ – âm vật…, vì âm vật ở trên cao dù có tiết dịch nhiều cũng không có độ trơn ở âm vật.

Tóm lại, tạo được CK ở nữ giới là một nhu cầu tất yếu trong đời sống sinh hoạt vợ chồng, là một hành vi văn hóa, một nghệ thuật say đắm lòng người, một khía cạnh của hạnh phúc, nam giới cần có trách nhiệm để tạo hương vị cho cuộc đời, là yếu tố để nam giới có đủ tự tin, thoát khỏi sự mặc cảm, tự ti thậm chí buồn chán và thất vọng.

BS. CKI Trần Quốc Long-Suckhoedoisong

Người tăng huyết áp có cần kiêng ăn trứng?

Rất nhiều người nghĩ rằng người bị tăng huyết áp thì cần kiêng ăn trứng, thực tế không phải như vậy. Những kết quả nghiên cứu của Hội Y khoa Mỹ đã cho thấy nếu người bình thường ăn 1-2 quả trứng mỗi ngày sẽ không nguy hại gì cho sức khỏe.

Theo Tiến sĩ Meis Stempfe thuộc Trường đại học Harvard của Mỹ đã kết luận rằng: "Trứng chính là một quà tặng của tự nhiên dành cho con người". Chúng ta hãy tìm hiểu về thành phần của trứng để yên tâm hơn khi sử dụng nó làm thực phẩm.

Trứng là loại thức ăn có giá trị dinh dưỡng đặc biệt cao. Trong trứng có đủ chất đạm, chất béo, vitamin, chất khoáng, các men và hormon. Tỷ lệ các chất dinh dưỡng trong trứng tương quan với nhau rất thích hợp, cân đối.

Chất đạm của trứng là nguồn rất tốt các axit amin cần thiết có nhiều vai trò quan trọng trong cơ thể, đặc biệt cần thiết cho sự phát triển cả về cân nặng và chiều cao của trẻ. Trứng có nguồn chất béo rất quý đó là lecithin. Lecithin thường có rất ít ở các thực phẩm khác, nó tham gia vào thành phần các tế bào và dịch thể của tổ chức đặc biệt là tổ chức não. Nhiều nghiên cứu cho thấy lecithin có tác dụng điều hòa lượng choletsterol, ngăn ngừa tích lũy cholesterol, thúc đẩy quá trình phân tách và bài xuất nó ra khỏi cơ thể. Trứng cũng chứa lượng cholesterol đáng kể (600mg cholesterol/100g trứng gà), nhưng trứng cũng có tương quan thuận lợi giữa lecithin và cholesterol do vậy lecithin sẽ phát huy vai trò điều hòa cholesterol ngăn ngừa quá trình xơ vữa động mạch và đào thải cholesterol ra khỏi cơ thể. Trứng cũng là nguồn cholin quý mà ít thực phẩm nào sánh bằng, chất cholin sẽ được gan chuyển thành axetylcholin là chất dẫn truyền thần kinh giúp làm tăng trí nhớ. Nếu ăn nhiều trứng sẽ làm tăng cholesterol máu nhưng mức tăng thực ra là rất nhỏ mà chính chất béo bão hòa được tìm thấy nhiều ở thịt, mỡ và phủ tạng động vật... mới làm cho cholesterol tăng lên nhiều. Trứng cũng là nguồn vitamin và chất khoáng rất tốt, các chất khoáng như sắt, kẽm, đồng, mangan, iốt... tập trung hầu hết trong lòng đỏ. Lòng đỏ có cả các vitamin tan trong nước (B1,B6) và vitamin tan trong dầu (vitamin A, D, K). Trong lòng trắng chỉ có 1 ít vitamin tan trong nước (B2,B6). Cả trong lòng đỏ và lòng trắng có chất biotin. Biotin là vitamin B8 - là vitamin tham gia vào chu trình sản xuất ra năng lượng để đáp ứng nhu cầu của cơ thể. Trong lòng trắng trứng tươi chất biotin kết hợp với 1 protein là avidin làm mất hoạt tính của biotin, tạo phức hợp biotin-avidin rất bền vững và không chịu tác dụng của men tiêu hóa. Khi nấu chín avidin sẽ được giải phóng khỏi phức hợp biotin-avidin. Khi ăn trứng sống có biểu hiện ngộ độc chính là tình trạng thiếu biotin với các dấu hiệu: chán ăn, nôn mửa, viêm lưỡi, viêm kết mạc, viêm móng và quanh móng...

Lòng đỏ và lòng trắng trứng có độ đồng hóa khác nhau. Lòng đỏ do độ nhũ tương và phân tán đều các thành phần dinh dưỡng nên ăn sống hoặc chín đều rất dễ đồng hóa, hấp thu. Các phương pháp nấu nướng thông thường (trừ quá kỹ) không làm giảm giá trị dinh dưỡng của nó.

Lòng trắng trứng khó tiêu và đồng hóa kém là do trong lòng trắng còn có men antitrypsin, ức chế các men tiêu hóa của tụy và ruột, khi đun nóng 80oC men này sẽ bị phá hủy. Do vậy cần nấu chín kỹ phần lòng trắng mới được ăn. Trứng là thức ăn quen thuộc và giàu dinh dưỡng, các chất dinh dưỡng lại ở tỷ lệ cân đối, do vậy trứng có thể sử dụng cho cả trẻ em và người lớn. Với trẻ nhỏ từ 5-6 tháng, 1 tuần chỉ nên ăn 3 lần, mỗi lần 1/2 lòng đỏ trứng gà dưới dạng nấu bột hay nấu cháo. Với trẻ trên 7 tháng mỗi ngày có thể ăn 1 quả trứng gà hoặc trứng vịt hoặc 4 quả trứng chim cút. Với người lớn 1 tuần có thể ăn 3-4 lần trứng. Với người bị tăng huyết áp hoặc cholesterol cao trong máu vẫn có thể ăn trứng vì qua những kết quả nghiên cứu của các chuyên gia dinh dưỡng Mỹ đã khẳng định, ăn trứng không làm tăng huyết áp và cholesterol máu mà trứng có chứa nhiều chất dinh dưỡng có lợi cho sức khỏe con người. Tuy nhiên với những người có huyết áp cao và mỡ cao trong máu chỉ nên ăn 2-3 lần trứng trong 1 tuần.

TS. Thanh Châu-Suckhoedoisong

Cách phòng ngừa bệnh cao huyết áp

BS. Quốc Bảo

Trong đời sống công nghiệp hiện nay, bệnh cao huyết áp (HA) ngày càng trở nên phổ biến. Các yếu tố liên quan đến việc gia tăng HA thường gắn liền vớI đời sống hiện đại như: thừa cân, hút thuốc lá, uống rượu nhiều, thừa lượng muối và lượng chất béo trong khẩu phần ăn… vì vậy, duy trì một lối sống lành mạnh là biện pháp hữu hiệu nhất để phòng chống căn bệnh này.

HA là gì?

HA là áp suất động mạch được tạo bởi sức đẩy của tim và sức ép của thành động mạch. HA thường được tượng trưng bằng hai chỉ số (thí dụ 120/80 đơn vị là mmHg), số trên (120) gọi là HA tâm thu, biểu hiện lực đẩy từ tim khi tim co bóp đẩy máu đi; số dưới (80) gọi là HA tâm trương, biểu hiện trương lực của thành mạch. Khi nào thì gọi là cao HA? Khi đo HA, muốn có một trị số tin cậy, người được đo phải nghỉ ngơi 10 – 15 phút trước khi đo và thường đo HA ở tay trái.

Trị số HA bình thường của mỗi người thay đổi tùy theo lứa tuổi

- HA tâm trương (số dưới) bình thường là từ 84-89; 90-104 là hơi cao và từ 105 trở lên là cao.

- HA tâm thu (số trên) bình thường là từ 120-139; 140-159 là hơi cao và 160 trở lên là cao.

- Dưới 40 tuổi, HA 145/80; dưới 50 tuổi, HA 150/80; dưới 60 tuổi HA 160/ 90 và trên 60 tuổi, HA 165/95 được coi là có khuynh hướng cao.

Những yếu tố ảnh hưởng đến trị số HA

Thỉnh thoảng, nếu thấy HA thay đổi và có khuynh hướng tăng thì khoan lo, vì có nhiều yếu tố trong cuộc sống ảnh hưởng đến trị số của HA như lo nghĩ, cảm xúc mạnh, bị stress, vận động nhiều, dùng nhiều chất kích thích… Ngoài ra, theo thời gian, người càng cao tuổi HA càng có khuynh hướng tăng lên do động mạch bị xơ vữa, kém đàn hồi.

Chế độ ăn uống cho người bị cao HA

Việc sử dụng thuốc trị cao HA phải do BS chỉ định nhưng một vấn đề khác cũng cần đặt ra, đó là làm giảm yếu tố nguy cơ cao HA do ăn uống. Vì thế, chế độ dinh dưỡng thích hợp là cần thiết.

- Thông thường nên ăn 3 bữa/ngày, không nên ăn vặt.

- Tránh thức ăn chiên xào, hạn chế mỡ, nhất là mỡ động vật. Tốt nhất là sử dụng thực phẩm hấp, luộc.

- Tránh các chất kích thích như trà, cà phê, thuốc lá…

- Nên ăn nhiều rau quả xanh để cung cấp chất xơ cho cơ thể, dùng dầu thực vật thay mỡ… và các sản phẩm từ ngũ cốc, trái cây, sản phẩm từ sữa…

- Trong các loại thịt thì ưu tiên cá, sau đó đến thịt gia cầm, cuối cùng mới đến thịt bò, heo, cừu.

- Hạn chế ăn muối, các nước chấm mặn, các thực phẩm giàu natri như: tôm khô, trứng vịt muối, chanh muối, thịt chà bông…

Bỏ thói quen xấu

- Ngưng hút thuốc: là biện pháp hữu hiệu nhất để phòng ngừa cả bệnh tim mạch lẫn không tim mạch ở người cao HA.

- Bớt uống rượu: có những bằng chứng cho thấy, có mối tương quan chặt chẽ giữa uống rượu, HA và tỷ lệ bệnh cao HA trong cộng đồng. Ngoài ra, rượu làm giảm tác dụng của thuốc hạ HA. Những người này cần lưu ý, nếu uống nhiều rượu sẽ gia tăng nguy cơ bị tai biến mạch máu não.

- Tăng hoạt động thể lực: giảm bớt béo phì, người sống tĩnh tại cần tập thể dục đếu đặn ở mức vừa phải như đi bộ nhanh hoặc bơi lội trong vòng 30 –45 phút, 3-4 lần/tuần. Các hoạt động thể dục này hiệu quả hơn chạy hoặc nhảy và có thể làm giảm HA tâm thu từ 4- 8mmHg. Các tập luyện nặng như cử tạ có tác dụng làm tăng HA, vì vậy nên tránh.

(Theo Suckhoedoisong)