Thứ Sáu, 13 tháng 11, 2009

Bị gout - Hãy uống nhiều nước

Theo các chuyên gia y tế, những bệnh nhân gout, ngoài việc duy trì chế độ ăn hợp lý, kiêng thực phẩm giàu purin... thì việc uống nhiều nước trong ngày sẽ tăng cường thải axit uric qua đường tiểu tiện.

Việc uống nhiều nước, nước khoáng, nước không có gas, giúp thải acid uric được tốt hơn cũng là một biện pháp phòng tránh cơn gout cấp và bệnh nhân gout cần tuân thủ điều trị để tránh suy thận, sỏi thận.

Chế độ ăn ảnh hưởng rất nhiều đến tình trạng bệnh gout vì vậy, người bị gout cần tuân thủ những nguyên tắc cơ bản dưới đây:

- Đảm bảo cung cấp năng lượng từ 30-35calo/kg cân nặng lý tưởng/ngày. Trong đó, lượng Protid: 0,8- 1g/kg cân nặng lý tưởng/ngày; Lipid: 20- 25% tổng số năng lượng. Axid béo chưa no 1 nối đôi chiếm 1/3, nhiều nối đôi chiếm 1/3 và axid béo no chiếm 1/3 trong tổng số lipid.

- Uống nhiều nước, tối thiểu là 1,5 lít /ngày. Không uống rượu, bia.

- Duy trì cân nặng lý tưởng. Với người béo cần có chế độ giảm calo.

- Loại bỏ thực phẩm giàu purin ra khỏi thực đơn hàng ngày như: các loại thịt thú rừng, phủ tạng, thịt lợn, thức ăn rán, cá trích, cá hộp...

- Hạn chế các thực phẩm như: Thịt, cá (100g/ngày), tôm, cua, ốc; Rau khô, trứng, sữa và sản phẩm sữa.

- Không nên ăn quá no trong một bữa mà chia nhỏ bữa ăn từ 3- 4 bữa/ngày.

- Không dùng các thực phẩm và đồ uống có khả năng gây đợt gút cấp như bia, nước có gas, cà phê, chè...

Nguồn: Hướng dẫn chế độ ăn bệnh viện - Bộ Y tế

Có thể làm giảm hàm lượng axit uric bằng rau quả ?

Hỏi: xin bac si cho chau biet co the dung che do an bang rau qua de dieu tri lam giam ham luong axit uric trong co the duoc ko, cach dung nhu the nao, bang nhung trai cay nao . Xin cam on bac si ?

Trả lời: Hiện chưa có tài liệu nào nói đến việc làm giảm acid uric máu bằng rau quả hoặc bằng các thuốc đông y nói chung. Chỉ có thể hạn chế các thức ăn có chứa nhiều purine để tránh làm tăng acid uric máu như đã nói ở trên.

Bác sĩ Nguyễn Thu Giang

Bệnh gút nên kiêng cữ những gì?

Hỏi : Em có người bạn bị bệnh Gút, bác sĩ có thể cho em biết triệu chứng của bệnh, các thức ăn phải kiêng cữ... Bệnh này có thể chữa khỏi được không? Người mắc bệnh này phải kiêng luôn việc quan hệ? lanlanphan@...Địa chỉ email này đang được bảo vệ khỏi chương trình thư rác, bạn cần bật Javascript để xem nó

Trả lời : Bệnh gút là một trong những bệnh thấp khớp gây đau đớn nhất, do ứ đọng những tinh thể uric acid nhọn như kim ở tổ chức liên kết, ở ổ khớp hay cả hai. Sự ứ đọng này dẫn tới viêm khớp với các triệu chứng sưng, nóng, đỏ, đau và cứng khớp.

Thuật ngữ viêm khớp bao gồm hơn 100 bệnh phong thấp ảnh hưởng đến khớp, cơ, xương cũng như các mô và các cấu trúc khác. Bệnh gút chỉ chiếm khoảng 5% trong số mọi trường hợp viêm khớp. Đôi khi bệnh gút “giả” cũng bị coi là bệnh gút vì có những triệu chứng tương tự như viêm, tuy nhiên, bệnh gút “giả” cũng còn có tên là bệnh ứ đọng phốt phát canxi ở sụn (chondrocalcinosis) chứ không ứ đọng uric acid như trong bệnh gút thật. Vì thế, điều trị bệnh gút “giả” có hơi khác.

Uric acid là sản phẩm thoái hóa của purine, chất này có trong các mô trong cơ thể và có ở nhiều loại thức ăn. Bình thường, uric acid hòa tan trong máu và đi qua thận để đào thải ra ngoài trong nước tiểu. Nếu cơ thể tăng sản sinh ra uric acid hay thận không đào thải được nhiều uric acid như cần thiết thì nồng độ uric acid tích tụ trong máu (gọi là tăng uric trong máu); hệ quả này cũng có thể xảy ra khi ăn quá nhiều thức ăn có hàm lượng cao purine như gan, đậu đỗ khô, cá trồng (thuộc họ cá trích), nước xốt.

Tăng uric acid trong máu không phải là một bệnh và bản thân nó không nguy hiểm. Tuy nhiên, nếu quá nhiều uric acid thì tất yếu sẽ hình thành các tinh thể và làm cho bệnh gút phát sinh. Quá nhiều tinh thể tích tụ ở khoang khớp sẽ gây viêm. Sự ứ động uric acid có thể ở dạng cục dưới da quanh khớp và cả ở vành tai. Ngoài ra, tinh thể uric acid còn có thể tích tụ ở thận và gây ra sỏi thận; bệnh gút tiên phát ở cả khớp ngón chân cái, khoảng 75% số bệnh nhân. Gút cũng có thể phát triển ở khớp bàn chân, cổ chân, gót chân, đầu gối, cổ tay, các ngón tay và khuỷu tay. Bệnh có thể diễn biến qua 4 giai đoạn:

Giai đoạn tăng acid uric trong máu, ngoài ra không có triệu chứng gì khác: ở giai đoạn này không cần điều trị.

Gút cấp tính hay viêm khớp do gút cấp: tăng uric acid đã tạo nên các tinh thể ở các khoang khớp, gây đau đột ngột và sưng khớp, có thể có cảm giác nóng và rất đau khi sờ mó. Cơn đau cấp thường xảy ra về ban đêm và đau do những sự cố gây stress, do rượu hay có bệnh nào đó. Đau thường giảm đi trong vòng 3-10 ngày, kể cả khi không điều trị và cơn đau tiếp theo có thể không xảy ra trong nhiều tháng hay nhiều năm. Tuy nhiên, theo thời gian, những cơn đau có thể kéo dài hơn và thường xuyên hơn.

Giữa các đợt đau khớp: có thể không có triệu chứng gì và chức năng khớp vẫn bình thường.

Bệnh gút mạn tính: giai đoạn khó chịu nhất của bệnh gút và thường kéo dài nhiều năm, có khi tới 10 năm. Thường xuyên đau ở khớp bị bệnh và đôi khi đau cả ở thận. Điều trị đúng thì phần lớn bệnh nhân không phát triển bệnh tới giai đoạn này.

Những nguyên nhân gây ra bệnh gút: một số yếu tố nguy cơ liên quan đến sự phát triển tăng uric acid trong máu:

Di truyền có thể có vai trò gây ra nguy cơ vì có tới 18% bệnh nhân gút có tiền sử gia đình có bệnh.

- Giới và tuổi tác có liên quan đến nguy cơ phát sinh bệnh, nam dễ bị bệnh hơn nữ và thường gặp ở người trưởng thành hơn là ở trẻ em.

- Người quá cân dễ bị tăng uric acid trong máu và dễ bị gút hơn vì các mô chuyển hóa và phân hủy nhiều hơn dẫn đến sự sản sinh quá nhiều uric acid.

- Uống quá nhiều rượu có thể gây tăng uric acid trong máu vì cản trở sự đào thải uric acid ra khỏi cơ thể.
- Ăn quá nhiều thực phẩm giàu purin có thể làm nặng thêm bệnh ở một số người.

- Thiếu hụt endim tham gia vào phân hủy purine gây ra bệnh gút ở một số ít người, nhiều người trong số này có tiền sử gia đình bị bệnh gút.

- Có người dùng một số thuốc hay có một số bệnh nào đó có nguy cơ bị tăng uric acid trong dịch cơ thể, ví dụ những loại thuốc sau đây có thể dẫn đến tăng uric acid trong máu vì giảm khả năng đào thải uric acid của cơ thể: thuốc lợi tiểu, salicylat hay các thuốc chống viêm tạo ra từ salicylate như aspirin, vitamin niacin còn gọi là nicotinic acid, thuốc ức chế hệ miễn dịch cyclosporine và kiểm soát sự đào thải mảnh ghép của cơ thể, thuốc levodopa hỗ trợ dẫn truyền thần kinh dùng cho bệnh Parkinson.

Điều trị: nếu điều trị đúng phương pháp, hầu hết bệnh nhân gút có thể kiểm soát được các triệu chứng và vẫn có thể làm việc. Có thể dùng liệu pháp duy nhất hay phối hợp. Mục đích của điều trị là giảm đau trong những đợt cấp để phòng ngừa các đợt sau và tránh sự tạo thành các tinh thể uric acid và sỏi thận.

Điều trị có hiệu quả thì có thể giảm được các triệu chứng và cả tổn thương lâu dài ở khớp bệnh, tức là giúp phòng ngừa sự tàn tật do gút gây ra. Dùng thuốc chống viêm không có nhân steroid (NSAID) hay colchicine uống liều nhỏ hàng ngày để phòng ngừa các cơn đau khớp sau này. Cũng có thể dùng allopurinol (zyloprim) hay probenecid (Benemid) để điều trị tăng uric acid trong máu và giảm tần suất các đợt đau đột ngột và sự tạo thành các tinh thể.

Không có tài liệu nào nói đến việc phải kiêng quan hệ tình dục nếu bị gút; tất nhiên nên tránh khi có đợt cấp tính và cần lựa chọn tư thế tình dục thích hợp khi bị đau khớp.

Bs Đào Xuân Dũng

Bữa ăn hàng ngày đối với bệnh nhân mắc bệnh gút

Gut là một bệnh khớp do rối loạn chuyển hóa nhân purin của tế bào, có thể nói nôm na là rối loạn chuyển hóa đạm, được đặc trưng bởi sự tăng cao quá mức axit uric trong máu và mô. Các tinh thể urat lắng đọng vào màng hoạt dịch của khớp gây nên viêm khớp vi tinh thể với những triệu chứng rất đặc trưng.

Bệnh thường xảy ra ở những người có địa vị cao trong xã hội hay người có kinh tế khá giả. Tuy nhiên, những năm gần đây, xã hội phát triển, đời sống dần được nâng cao, khoảng cách giữa thành thị và nông thôn cũng bị rút ngắn nên bệnh gut không phải chỉ là bệnh của nhà giàu mà đã trở thành một trong những bệnh của cuộc sống văn minh hiện đại. Bệnh chủ yếu gặp ở nam giới trưởng thành. Yếu tố gia đình thường hay gặp. Khoảng 10-30% bệnh nhân gut có người thân trong gia đình cũng mắc bệnh này. Bệnh gut đặc biệt hay gặp ở chủng tộc Polynesia, có thể là do thói quen sinh hoạt, chế độ ăn uống giống nhau trong gia đình.

Bệnh được biết đến từ thời Hypocrat nhưng đến thế kỷ XVII Sydenham mới mô tả đầy đủ các triệu chứng của bệnh. Một đặc trưng của bệnh gut là việc xuất hiện các cơn viêm khớp cấp tính do gut. Cơn xuất hiện tự phát hoặc sau một bữa ăn hoặc uống rượu quá mức. Nhiều bệnh nhân mô tả các đợt sưng đau khớp dữ dội đến mức không đi lại được sau những khi ăn nhiều hải sản, thịt thú rừng, thịt chó, hay đơn giản chỉ là ăn lòng lợn, tiết canh. Đặc biệt, uống nhiều rượu cũng góp phần gây tái phát bệnh.

Các tổn thương do gut gây ra

Khớp hay bị tổn thương là các khớp ở chi dưới như gối, cổ chân và đặc biệt là ở ngón chân cái. Cơn viêm khớp cấp tính thường khởi phát đột ngột và dữ dội vào nửa đêm. Khớp bị tổn thương đau ghê gớm, bỏng rát, đau làm mất ngủ, da trên vùng khớp hay cạnh khớp sưng nề, có màu hồng hoặc màu đỏ. Bệnh nhân đi lại rất khó khăn hay phải nằm bất động do đau. Viêm khớp cấp tính thường kèm theo cảm giác mệt mỏi, đôi khi sốt 38-38,5oC, có thể kèm rét run. Đợt viêm khớp cấp tính do gut kéo dài khoảng 1-2 tuần rồi khỏi, không để lại di chứng nhưng rất dễ tái phát với việc xuất hiện các đợt viêm khớp mới. Một đặc điểm nữa là khi uống thuốc colchicin thì bệnh nhân thấy giảm đau khớp nhanh trong vòng 48-72 giờ. Nhiều bệnh nhân chủ quan không điều trị đến nơi đến chốn, hay tự điều trị bằng các thuốc khớp, đặc biệt là dùng bừa bãi các thuốc prednisolon, dexamethason. Hậu quả là bị loét dạ dày, xuất huyết tiêu hóa, gãy xương, tăng huyết áp, đái tháo đường…

Cần có một chế độ ăn uống hợp lý

Khi có các đợt viêm khớp cấp tính, bệnh nhân nên uống nhiều nước (nước chè, nước hoa quả, sữa) và ăn cháo, súp, sữa, trứng. Một chế độ ăn hợp lý cần nhiều rau xanh và hoa quả, đặc biệt là rau actisô, xà lách, cà rốt, bắp cải, dưa chuột, dưa gang, khoai tây, cà chua. Có thể ăn trứng, sữa và các chế phẩm từ sữa, phomat trắng không lên men, cá nạc, ốc sò. Ngoài ra, bệnh nhân cần tích cực uống nhiều nước, đặc biệt là nước khoáng kiềm (sô đa, nước khoáng Lavie, Vĩnh Hảo…) để tăng cường thải tiết axit uric qua nước tiểu.

Để đề phòng đợt tái phát của bệnh, ngoài chế độ dùng thuốc hợp ly, bệnh nhân còn phải phải tuân thủ một số quy tắc ăn uống, sinh hoạt khoa học để đạt trọng lượng cơ thể ở mức sinh lý.

Cần nhận thức rằng ăn uống không hợp lý là một yếu tố thúc đẩy làm xuất hiện bệnh và làm tái phát bệnh, do vậy bệnh nhân cần tự nguyện áp dụng chế độ ăn kiêng, hạn chế bia rượu. Cụ thể lượng thịt ăn hàng ngày không nên quá 150g, đặc biệt cần tránh ăn phủ tạng động vật (lòng lợn, tiết canh, gan, thận, óc, dạ dày, lưỡi…), các loại thịt đỏ (thịt chó, dê, trâu, bê), các loại hải sản tôm, cua, cá béo), đậu hạt các loại, nấm khô, sôcôla. Bệnh nhân cần bỏ rượu, thậm chí cả rượu vang, rượu thuốc. Một số loại thức ăn cần hạn chế sôcôla, cacao, nấm, nhộng, rau giền… Cần tránh ăn những thức ăn chua như nem chua, dưa hành muối, canh chua, hoa quả chua… vì chính những chất chua làm cho axit uric tăng cường lắng đọng vào khớp cấp tính. Bệnh nhân mắc chứng béo phì cần áp dụng chế độ ăn giảm mỡ, giảm kalo.

Tóm lại, bệnh nhân bị gut cần phải cố gắng duy trì chế độ ăn uống khoa học hợp lý như chọn cho mình các thức ăn lành mạnh, bổ dưỡng, tránh các loại thức ăn chứa quá nhiều đạm cũng như tránh thức uống có chất kích thích như bia, rượu, cả nước chanh. Bệnh nhân gut cũng cần được sự hợp tác, thông cảm từ người thân, bè bạn trong những dịp liên hoan ăn uống. Khi đó, người bệnh sẽ có thể chủ động áp dụng chế độ ăn thích hợp với tình trạng bệnh của mình để có được cuộc sống vui vẻ và hạnh phúc.

TS. Nguyễn Ngọc Vĩnh

Sữa ít béo có thể ngừa bệnh gút

Từ thế kỷ 17, thịt đỏ, hải sản và các sản phẩm sữa đã bị kết tội là thủ phạm gây ra bệnh gút - căn bệnh của nhà giàu. Tuy nhiên, một nghiên cứu mới đây của Mỹ đã "giải oan" cho sữa, theo đó uống sữa ít béo mỗi ngày có thể giảm nguy cơ mắc bệnh.

Bệnh gút từ lâu được xem là "bệnh của vua và cũng là vua của các loại bệnh". Nó từng tấn công những nhân vật nổi tiếng như Benjamin Franklin, Charles Darwin, Leonardo da Vinci, và đang là nỗi ám ảnh cho hàng triệu người trên thế giới. Gút là một dạng viêm khớp đặc biệt, do sự kết tụ axit uric trong các ổ khớp ở mắt cá chân hoặc bàn chân gây nên. Bệnh có thể gây sưng tấy, cử động cứng nhắc và đau đớn khủng khiếp. Nếu không chữa trị kịp thời, gút có thể gây tổn thương khớp vĩnh viễn. Từ thế kỷ 17, nhà triết học lừng danh John Locke đã khuyến cáo nên tránh xa thịt và các sản phẩm sữa để phòng bệnh.

Để kiểm chứng lời khuyên của Locke, nhóm nghiên cứu, dẫn đầu là tiến sĩ Hyon Choi từ Bệnh viện Đa khoa Massachusetts, đã tiến hành điều tra thói quen ăn uống của hơn 47.000 đàn ông, bao gồm các bác sĩ nha khoa, nhãn khoa, chuyên gia nắn xương, dược sĩ và bác sĩ thú y.

Nhóm nhận thấy, nếu ăn quá nhiều thịt mỗi ngày, đặc biệt là thịt bò, lợn, cừu, thì nguy cơ phát triển bệnh gút sẽ tăng 21%. Nếu tiêu thụ nhiều hải sản mỗi tuần sẽ làm tăng 7% nguy cơ. Trong khi đó, nếu uống từ 1 tới 5 cốc sữa ít béo mỗi ngày thì nguy cơ mắc bệnh giảm tới 43%.

"Đó là bằng chứng đầu tiên cho thấy các sản phẩm sữa có khả năng ngăn ngừa bệnh gút hiệu quả", tiến sĩ Choi cho biết.

Nhóm của Choi cũng phát hiện ra một số loại rau mà người ta từng cho rằng có thể khiến bệnh gút thêm trầm trọng như các loại đậu hạt, đậu Hà Lan, nấm, rau bina, súp lơ... thực tế không những không nguy hiểm mà còn rất tốt cho người bệnh.

Theo Reuters

Chăm sóc bệnh nhân gút tại gia đình

Những người mắc bệnh gút nếu bị béo phì thì nên điều chỉnh chế độ ăn và sinh hoạt để giảm cân, nhưng không được giảm quá nhanh. Tránh làm việc quá sức, tránh lạnh hay ăn uống quá mức.

Gút xuất hiện do rối loạn chuyển hóa axit uric trong cơ thể. Biểu hiện là viêm ở các khớp, chủ yếu gặp ở nam (95%), tuổi trung niên (30-40 tuổi).

Cơn viêm cấp thường xuất hiện sau bữa ăn nhiều rượu thịt, chấn thương hoặc phẫu thuật, sau lao động nặng, đi lại nhiều, xúc động, nhiễm khuẩn cấp. Khoảng 50% có dấu hiệu báo trước như rối loạn tiêu hóa, nhức đầu, mệt mỏi, đi tiểu nhiều, sốt nhẹ. Khoảng 60-70% có biểu hiện viêm cấp ở khớp bàn ngón chân cái. Bệnh nhân đau dữ dội, ngón chân sưng to, phù nề, căng bóng, đỏ, sung huyết.

Đợt viêm kéo dài 1-2 tuần, đêm đau nhiều hơn ngày. Sau đó viêm nhẹ dần, đau giảm, bớt phù nề, da tím dần, hơi ướt, ngứa nhẹ rồi bong vảy. Sau khi khỏi, bệnh không để lại di chứng nhưng có thể tái phát vài lần trong năm.

Gút mạn tính có thể tiếp theo gút cấp tính, nhưng phần lớn bắt đầu từ từ, tăng dần, không qua các đợt cấp, biểu hiện bằng dấu hiệu nổi u cục (lắng đọng urat ở xung quanh khớp, đầu xương, sụn) và viêm đa khớp mạn tính (thường là các khớp nhẹ và vừa, rất dễ nhầm với bệnh viêm đa khớp dạng thấp). Bệnh cũng có biểu hiện ở cơ quan khác như thận (sỏi thận), thần kinh.

Đối với cơn gút cấp tính, bệnh nhân cần thăm khám và điều trị tại bệnh viện. Bệnh nhẹ hoặc gút mạn tính có thể điều trị tại nhà theo đơn của thầy thuốc. Để phát huy tác dụng điều trị, người bệnh gút cần có chế độ sinh hoạt, ăn uống hợp lý: Kiêng rượu, bia và các chất kích thích chè, cà phê; uống nhiều nước (2 lít/ngày), nên dùng các loại nước khoáng có chứa nhiều bicacbonat. Hạn chế thức ăn có nhiều axit uric như thịt, cá, tôm, cua, phủ tạng động vật, đậu đỗ; ưu tiên thức ăn có ít axit uric như trứng, sữa, phomat, ngũ cốc, các loại hạt, đường rau quả.

Món ăn bài thuốc: Ý dĩ 60 g, hồng táo 20 quả; nấu chín, ăn ngày một lần. Hoặc: Trứng cút 5 quả, hạt sen 30 g; nấu chín, ăn ngày một lần.

Theo Sức Khỏe & Đời Sống

Bị gout có phải kiêng đậu phụ không?

Hỏi : Bị gout có phải kiêng đậu phụ không? tmti...@

Trả lời : Các loại đậu nói chung như đậu tương (nguyên liệu làm đậu phụ, tàu hũ, sữa đậu nành..), đậu đen, đậu đỏ, đậu xanh… đều là những thực phẩm chứa nhiều purine. Acid uric là sản phẩm cuối cùng của chuyển hóa purine trong cơ thể. Ăn nhiều thức ăn có chứa nhiều purine sẽ dẫn đến tăng acid uric máu, nguyên nhân của bệnh gout.Do vậy, các bệnh nhân gout nên hạn chế ăn các loại đậu cũng như các thức ăn có chứa nhiều purine khác.

Bác sĩ Nguyễn Thu Giang

Dinh dưỡng trong phòng chống bệnh gút

Gút (Goute) là một bệnh rối loạn chuyển hóa có liên quan đến ăn uống do nồng độ acid uric quá cao trong huyết tương, dẫn đến lắng đọng các tinh thể urat (muối của acid uric) hoặc tinh thể acid uric. Nếu lắng đọng ở khớp (ở sụn khớp, bao hoạt dịch) sẽ làm khớp bị viêm, gây đau đớn, lâu dần gây biến dạng, cứng khớp. Nếu lắng đọng ở thận sẽ gây bệnh thận do urat (viêm thận kẽ, sỏi thận...). Bệnh thường gặp ở nam giới trên 40 tuổi, có những đợt kịch phát, tái phát nhiều lần.

Các biểu hiện của bệnh Gút :

- Viêm khớp cấp tính: Sưng và đau nhức khớp, nhất là khớp đốt bàn và ngón chân cái.

- Lắng đọng sạn urat: Thấy những cục hay hạt urat nổi dưới da, di động được dưới vành tai, mỏm khuỷu, xương bánh chè hoặc gần gân gót.

- Sỏi urat, acid uric trong hệ thống thận - tiết niệu.

- Viêm thận kẽ, suy thận.

- Xét nghiệm máu thấy acid uric tăng cao trên 400 micromol/lít.

Những người có nhiều nguy cơ bị tăng acid uric máu và mắc bệnh Gút :

- Có tiền sử gia đình bị bệnh Gút.

- Thừa cân và béo phì.

- Ăn uống không hợp lý, ăn quá nhiều thực phẩm chứa nhiều nhân purin.

- Nghiện rượu, nghiện cà phê.

- Dùng nhiều thuốc lợi tiểu như hypothiazid, lasix… có thể làm tăng acid uric và gây ra các đợt Gút cấp tính.

Chế độ ăn uống trong phòng chống bệnh Gút :

Cần nhận thức rằng ăn uống không hợp lý là một yếu tố thúc đẩy xuất hiện bệnh và tái phát bệnh. Nhiều bệnh nhân xuất hiện đợt sưng đau khớp dữ dội đến mức không đi lại được sau khi ăn nhiều hải sản, thịt chó, thịt thú rừng hay dạ dày, lòng lợn, tiết canh. Vì vậy chế độ ăn uống của bệnh nhân Gút có ý nghĩa rất quan trọng, có thể làm hạ acid uric huyết bằng cách hạn chế đưa nhân purin vào cơ thể (acid uric được tạo nên do oxy hóa nhân purin).

Chế độ ăn trong phòng chống bệnh Gút

- Đảm bảo bữa ăn có đầy đủ các chất dinh dưỡng ở tỷ lệ cân đối.

- Đảm bảo cân đối giữa các thành phần sinh năng lượng (đạm - béo - đường). Tỷ lệ năng lượng do các thành phần cung cấp nên là: Đạm: Béo: Đường = 12-15% : 18-20% : 65-70%.

- Ăn vừa phải các loại thức ăn chứa nhiều nhân purin như các loại thịt, hải sản, các loại phủ tạng động vật.

- Cần có sự lựa chọn và phối hợp nhiều loại thực phẩm đều đặn trong thực đơn hàng ngày.

- Không uống quá nhiều và kéo dài rượu, bia, cà phê.

- Luôn uống đủ nước.

Chế độ ăn trong điều trị bệnh Gút :

- Giảm bớt lượng đạm trong khẩu phần.

- Không nên ăn các thực phẩm có chứa nhiều acid uric (nhóm III): Óc, gan, bầu dục (cật), các loại phủ tạng, nước ninh xương, luộc thịt…

- Ăn vừa phải các loại thực phẩm có hàm lượng acid uric trung bình (nhóm II): Thịt, cá, hải sản, đậu đỗ… Các thực phẩm nhóm II chỉ nên ăn mỗi tuần 2-3 lần.

- Sử dụng các thực phẩm chứa ít acid uric trong chế biến bữa ăn hàng ngày như ngũ cốc, các loại hạt, bơ, mỡ, trứng, sữa, phomat, rau quả.

- Hạn chế các đồ uống gây tăng acid uric máu như rượu, bia, trà, cà phê.

- Ăn nhiều rau quả không chua. Hạn chế ăn các loại quả chua vì sẽ làm tăng thêm độ acid trong máu.

- Lượng đường, bột trong khẩu phần (gạo, bột mì, đường, bánh, kẹo, có thể sử dụng với tỷ lệ cao hơn người bình thường một chút).

- Uống các loại nước có tính kiềm: nước rau, nước khoáng.

- Uống đủ nước hàng ngày.

Để điều trị bệnh Gút hiệu quả, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa chế độ ăn uống và sử dụng thuốc chữa bệnh hợp lý theo đúng chỉ dẫn của bác sĩ.

Bảng hàm lượng purin trong một số loại thực phẩm (mg/100g).

Nhóm I

Nhân purin thấp(0-15mg)
Nhóm II
Nhân purin trung bình
(50-150mg)
Nhóm III
Nhân purin cao
(trên 150 mg)
Nhóm IV
Các loại đồ uống
Chứa nhân purin
Ngũ cốc
Dầu mỡ
Trứng
Sữa
Fomat
Rau, quả
Hạt
Thịt

Hải sản
Đậu, đỗ


Óc
Gan
Bầu dục
Cá trích
Nước dùng thịt
Nấm
Măng tây
Rượu
Bia
Cà phê
Trà


Ts: Đinh Thanh Liên

Ăn kiêng để tránh bệnh gout

 Bệnh gout được xem như là bệnh của vua, bởi thường chỉ làm khổ sở những ai ăn uống như quý tộc. Cách ăn kiêng của chúng ta cần tập trung vào các khẩu phần ăn giàu dinh dưỡng như thịt có màu đỏ giàu và thức ăn biển, còn về rau thì là đậu Hà Lan, nấm và bông cải (súp lơ).

Những thức ăn giàu dinh dưỡng, sẽ phá vỡ chất acid uric, làm cho gây viêm sưng, dẫn đến bệnh gout. Kết quả, những gì buộc người ta nghĩ đến là để tránh bệnh gout, người ta không ăn thức ăn có dinh dưỡng cao.

Người dẫn đầu nhóm điều tra của trường Y khoa Havard và Bệnh viện đa khoa Massachussetts, ông Hyon Choi nói: "Có nhiều hơn 2 ly sữa một ngày sẽ giảm bớt 50% nguy cơ bị gout. Những sản phẩm sữa thì thấp purine (purine là một hợp chất nitơ có cấu trúc phân tử 2 vòng, như adenine và guanine tạo thành các nucleotide của nucleic acid. Uric acid là sản phẩm sau cùng của chuyển hoá purine), nhưng lại cao protein. Và protein giúp chúng ta hạn chế mức độ tăng acid uric. Những kết quả chỉ ra rằng những sản phẩm sữa có độ béo thấp có thể ngăn ngừa gout khi nó mới vừa chớm bị".

Những thức ăn thịt và cá giàu protein thì đặc biệt có hàm lượng purine cao và có thể dẫn đến gout. Gà và những loại thịt "trắng" thì lại không tăng nguy cơ rủi ro dẫn đến bệnh gout. Ngay cả những loại rau giàu purines và cháo bột yến mạch cũng không tìm thấy nguy cơ tăng khả năng dẫn đến bệnh gout.

Theo Tuổi trẻ

Người bị bệnh gút nên ăn uống như thế nào?

Bệnh gút có thể được đề phòng và điều trị bằng nhiều phương pháp, trong đó vấn đề ăn uống đóng vai trò quan trọng.

Bệnh gút là một loại viêm khớp xảy ra đột ngột, thường vào ban đêm. Ai cũng có thể bị bệnh này, song hay gặp ở nam giới tuổi trung niên. Nữ giới trước tuổi mãn kinh hầu như không bị bệnh gút, nhưng sau tuổi 60, số nam và nữ mắc bệnh ngang nhau. Bệnh có tính di truyền, hay tái phát với biểu hiện sốt, sưng đau ở các ngón chân, nhưng đau dữ dội nhất là ngón chân cái. Đấy là gút cấp tính. Còn gút mạn tính chủ yếu gặp ở người già với nổi u cục ở quanh khớp, màng hoạt dịch, đầu xương, sụn… Nguyên nhân gây bệnh gút là do quá trình tổng hợp purin nội sinh tăng làm acid uric trong máu tăng. Khi acid này tăng quá cao (quá 7mg%) và tổng lượng acid uric trong cơ thể tăng quá 150.000mg thì nó sẽ lắng đọng ở một số tổ chức và cơ quan dưới dạng tinh thể: nếu lắng đọng ở màng hoạt dịch thì gây viêm khớp, lắng đọng ở thận gây sỏi thận, v.v…

Để phòng bệnh gút bộc phát, riêng về mặt ăn uống, người bệnh cần chú ý một số điều như sau:

1 - Tránh béo bệu, vì người béo phì dễ mắc bệnh gút do thường có mức độ acid uric cao. Với người đã béo, cần ăn ít mỡ và protein, thực hiện chế độ giảm cân dần dần có sự hướng dẫn của thầy thuốc, song không nên kiêng cữ quá mức, vì có thể làm cho các tế bào suy nhược và phóng thích acid uric khiến bệnh gút phát sinh.

2 - Không dùng thực phẩm có purin cao như: gan, thận, lách, óc, tôm, cua, trai, cá trích, cá mòi, thịt, nước thịt, cháo thịt, v.v. vì có thể làm tăng cao acid uric.

3 - Hạn chế các loại thực phẩm có purin như: măng, đậu khô, bông cải, nấm, bột yến mạch, đậu Hà Lan khô, rau dền, sò, ngũ cốc nguyên hạt, men rượu, cá, thịt, bò, gà, vịt…

4 - Uống nhiều nước, vì có thể giúp thải trừ acid uric dư thừa khỏi cơ thể trước khi nó gây hại đồng thời có thể làm giảm nguy cơ sỏi thận mà người bị bệnh gút hay mắc. Ít nhất mỗi ngày uống 5 - 6 ly nước mới có kết quả tốt. Có thể uống thêm dung dịch kiềm (bicarbonat Na 1.000ml/ngày), vì phản ứng viêm của màng hoạt dịch sẽ làm tăng chuyển hóa, sinh nhiều acid lactic tại chỗ và làm giảm độ pH, môi trường càng toan thì urat càng lắng đọng nhiều và phản ứng viêm càng liên tục kéo dài.

5 - Không uống rượu, bia, vì rượu có thể làm gia tăng sản xuất acid uric và cản trở sự bài tiết chất này khiến bệnh gút phát sinh. Bia cũng vậy vì chứa nhiều chất purin hơn cả rượu nho và rượu mạnh, v.v…

Bệnh gút gây đau khớp dữ dội, có thể làm mất khả năng vận động và đe dọa tính mạng người bệnh bởi các biến chứng thận, nhiễm khuẩn và suy kiệt. Bởi vậy, cần chủ động phòng bệnh phát sinh bằng mọi biện pháp, trong đó vấn đề ăn uống có vai trò quan trọng.

Bác sĩ Thuận Minh

Gút - "Bệnh thời sự" của những người lạm dụng ăn nhậu

Từ 30 tuổi trở lên, ở người đàn ông đã tiềm ẩn nguy cơ bệnh gút. Nếu trong sinh hoạt và dinh dưỡng, anh ta quá lạm dụng rượu bia và các thức ăn giàu chất đạm (như thịt chó, thịt dê, lòng lợn, tiết canh, hải sản...) thì triệu chứng bệnh sớm muộn cũng sẽ xuất hiện.

Tiến sĩ Trần Ngọc Ân, chủ tịch Hội Thấp khớp học Việt Nam, cho biết, nếu như 1 năm trước đây, gút chỉ chiếm 1% trong các bệnh về xương khớp thì hiện nay, nó đã chiếm đến 4-5% tổng số bệnh nhân phải nằm viện vì các bệnh này. Đây là một trong những bệnh mang tính thời sự do việc lạm dụng bia rượu và ăn nhậu gây nên.

Bệnh gút thường chỉ xuất hiện ở nam giới tuổi trung niên. Nguyên nhân gây bệnh là tình trạng thừa axit uric (trên 1 mg/1 cc máu) do cơ thể được cung cấp quá nhiều chất đạm. Lượng axit uric dư thừa sẽ kết lại thành các tinh thể đóng ở các khớp, gây đau.

Triệu chứng đầu tiên của bệnh gút xuất hiện sau các bữa ăn thịnh soạn với biểu hiện sưng đau ở một trong 2 ngón chân cái. Tình trạng này mất đi rồi lại tái phát; bệnh nhân đau rất dữ dội, đến mức không đi lại được. Các triệu chứng này có thể bị bác sĩ chẩn đoán nhầm là nhiễm trùng và cho dùng thuốc kháng sinh. Nếu không được chẩn đoán đúng và điều trị hợp lý, bệnh sẽ lan dần sang các khớp khác, gây biến dạng, lở loét và có khi làm mất chức năng vận động khớp. Lâu ngày, chất axit uric sẽ làm suy thận và có thể dẫn đến tử vong.

Mức độ chuyển biến bệnh cũng tùy theo ý thức giữ gìn của bệnh nhân. Nếu người bệnh tiếp tục ăn nhậu, kết cục xấu nhất có thể xảy ra chỉ trong vòng vài ba năm.

Hiện đã có thuốc chữa bệnh gút nhưng chỉ có tác dụng ở giai đoạn sớm. Thường chỉ nửa ngày hoặc một ngày sau khi uống thuốc, các triệu chứng bệnh sẽ rút hết. Nhưng nếu bệnh nhân không kiêng cữ đúng mực, bệnh sẽ tái phát. Điều đó có nghĩa là, đến nay chưa có thuốc nào điều trị được tận gốc căn bệnh.

Bệnh nhân gút có thể dùng thuốc Colchicin để chống viêm và Allopurinol để làm giảm nồng độ axit uric trong máu (theo chỉ định của bác sĩ). Tuy nhiên, điều quan trọng nhất vẫn là dự phòng bằng cách thực hiện chế độ dinh dưỡng hợp lý, tránh ăn thức ăn giàu đạm và uống nhiều rượu bia.

Tuổi trẻ

Gút và tăng uric trong máu (Phần 1)

Gút và tăng acid uric trong máu là gì ?
- Gút là một tình trạng y khoa được đặc trưng bởi tăng mức acid uric một cách bất thường trong máu, những đợt viêm khớp tái phát, lắng đọng những tinh thể acid uric cứng trong và quanh khớp, giảm chức năng thận và sỏi thận.
- Gút có đặc điểm duy nhất là một trong những bịnh được chẩn đoán thường xuyên qua khai thác bịnh sử. Nó thường liên quan đến di truyền về một sự bất thường trong quá trình xử lý acid uric trong cơ thể con người. Acid uric là sản phẩm phân hủy của purines có trong thức ăn. Một sự di chuyển bất thường của acid uric có thể gây ra viêm đau khớp (cơn gút), sỏi thận, và tắc những ống lọc trong thận (do những tinh thể acid uric) dẫn đến suy thận. Nói một cách khác bịnh nhân có thể có tăng acid uric trong máu nhưng không có viêm khớp hoặc vấn đề về thận. Chữ gút thường được sử dụng liên quan với những cơn viêm đau khớp.
Ai bị ảnh hưởng ?
- Xấp xỉ khoảng 1 triệu người Mỹ bị những cơn gút. Tỉ lệ nam:nữ là 9:1. Ở nam bịnh gia tăng sau tuổi dậy thì và đạt đỉnh điểm ở tuổi 75. Ở nữ thì thường xảy ra sau mãn kinh.
- Trong khi tăng acid uric chỉ ra có liên quan đến tăng nguy cơ về gút, nhưng mối liên hệ giữa 2 yếu tố này chưa rõ ràng. Nhiều bịnh nhân có tăng acid uric nhưng không phát triển gút trong khi những người khác có gút tái đi tái lại nhiều lần nhưng không có tăng acid uric trong máu. Dân số nam của Mỹ có đến 10% là tăng acid uric trong máu. Tuy nhiên, chỉ một số nhỏ những bịnh nhân này bị gút.
- Viêm đau khớp do gút thường là một cơn đau dữ dội với sự khởi phát nhanh của viêm khớp. Viêm khớp do sự kết tủa của những tinh thể lắng đọng acid uric trong dịch khớp và bao khớp. Viêm khớp xảy ra rất trầm trọng khi những bạch cầu làm lắng đọng những tinh thể acid uric và phóng thích những chất viêm gây đau, nóng và đỏ của khớp.
Những yếu tố nguy cơ đối với viêm khớp trong gút là gì ?
- Ngoài yếu tố vận chuyển bất thường acid uric trong máu là do di truyền, những yếu tố khác là béo phì, quá trọng, đặc biệt là những người trẻ, uống rượu trung bình đến nặng, cao huyết áp và chức năng thận bất thường. Những thuốc như lợi tiểu thiazide, aspirin liều thấp, niacin, cycloporine, thuốc lao (pyrazinamide và ethambutol) và những thuốc khác cũng làm tăng cao acid uric trong máu và dẫn đến bịnh gút.

Hơn nữa, những bịnh mà dẫn đến sự tạo thành acid uric thái quá trong cơ thể, ví dụ như bịnh bạch cầu, lymphoma, và những rối loạn về hemoglobin cũng có nguy cơ xuất hiện gút.

Một điều lý thú là những nghiên cứu mới đây chứng minh có sự gia tăng những người bị gút có mức hocmon tuyến giáp thấp.

- Trong những bịnh nhân với nguy cơ phát triển bịnh gút, những trạng thái dự đoán những cơn gút cấp. Ðó là tình trạng mất nước, chấn thương khớp, sốt, lặn lâu, uống nhiều rượu, và mới phẫu thuật. Những cơn gút khởi phát bởi phẫu thuật mới đây có thể liên quan với những thay đổi về cân bằng dịch trong cơ thể do quá trình uống nước không liên tục trong việc chuẩn bị và sau phẫu thuật.

Những triệu chứng của gút là gì ?
Khớp bàn-ngón chân cái là vị trí thường gặp nhất trong những cơn gút cấp. Những khớp khác cũng bị ảnh hưởng bao gồm cổ chân, đầu gối, cổ tay, ngón tay, khuỷu. Cơn gút cấp được đặc trưng bởi việc khởi phát nhanh những cơn đau trong những khớp bị ảnh hưởng, sau đó là sưng nóng, đỏ và đau. Ðau rất khủng khiếp vì thế ngay cả việc đắp mền ở vùng da có khớp viêm cũng không thể được.

Người bịnh có thể có sốt trong cơn gút cấp. Những cơn đau này thường lui dần và khỏi dù có hoặc không dùng thuốc. Trong những trường hợp hiếm, cơn gút có thể kéo dài vài tuần. Ða số những bịnh nhân gút sẽ bị những cơn gút tái phát qua nhiều năm.

Những tinh thể acid uric có thể lắng đọng trong những túi nhỏ, dịch quanh khớp. Những tinh thể urat này có thể kích thích trong bao khớp dẫn đến đau và sưng quanh khớp, được gọi là viêm bao khớp. Trong những trường hợp hiếm, gút dẫn đến một kiểu viêm khớp mãn giống như viêm đa khớp dạng thấp.

Trong bệnh gút mãn, có những nốt do tinh thể acid uric lắng đọng (tophi) trong những vùng mô mềm khác nhau của cơ thể. Chúng thường được tìm thấy nhất là những nốt cứng tròn quanh ngón tay, ở đầu khuỷu và quanh ngón cái, nhưng tophi có thể xuất hiện bất cứ nơi đâu trong cơ thể. Chúng cũng được tìm thấy trong những vùng ít gặp như tai, dây thanh âm, hoặc hiếm hơn là quanh tủy sống.

Viêm khớp trong gút được chẩn đoán như thế nào ?
- Gút được nghi ngờ khi bịnh nhân khai có những cơn viêm đau khớp lập đi lập lại ở khớp bàn ngón. Kế đó là khớp cổ chân và gối. Gút thường chỉ bị mỗi lần một khớp trong khi ở những bệnh khác như lupus, viêm đa khớp dạng thấp, thường bị nhiều khớp cùng một lúc.

- Test có giá trị nhất trong gút là xét nghiệm tinh thể acid uric lấy được khi chọc khớp. Chọc khớp được làm với gây tê tại chỗ, kỹ thuật vô trùng, dịch khớp được rút ra từ khớp viêm bằng cách sử dụng kim chích. Sau đó tìm tinh thể acid uric trong dịch khớp và tìm vi trùng. Những tinh thể acid uric giống như cây kim, óng ánh được tìm thấy dưới kính hiển vi có ánh sáng cực tím. Nó cũng được chẩn đoán bằng tìm thấy những tinh thể urate từ những chất lấy ra ở tophi và bao khớp viêm.

Một số bịnh nhân có tiền sử và triệu chứng của gút có thể được điều trị thành công và được chẩn đoán là gút mà không cần chọc khớp. Tuy nhiên, cần làm test để có chẩn đoán xác định vì có nhiều tình trạng viêm khớp giống gút. Nó bao gồm viêm khớp do những tinh thể khác gọi là giả gút, viêm khớp trong bịnh vẩy nến, viêm đa khớp dạng thấp và ngay cả nhiễm trùng.
X-quang đôi khi có ích và có thể chỉ ra sự lắng đọng những tinh thể tophi và tổn thương xương do viêm khớp nhiều lần. X-quang cũng có tác dụng theo dõi những ảnh hưởng của gút mãn tính lên khớp.
bacsigiadinh

Gút và tăng uric trong máu (Phần 2)

Gút được điều trị ra sao ?
- Việc ngăn ngừa những cơn gút cấp cũng quan trọng như việc điều trị viêm khớp cấp. Việc ngăn ngừa gút cấp liên quan với việc duy trì đủ dịch nhập, giảm cân, thay đổi chế độ ăn, giảm uống ruợu, và dùng thuốc giảm acid uric.
- Duy trì việc nhập nước đầy đủ cũng giúp ngăn ngừa những cơn gút cấp. Cung cấp dịch đầy đủ cũng giúp ngăn ngừa sự hình thành sỏi thận trong những bịnh nhân gút. Rượu có tính lợi tiểu làm cho bịnh nhân mất nước mà điều này góp phần tạo ra cơn gút cấp.Rượu cũng ảnh hưởng đến chuyển hóa acid uric và gây ra tăng acid uric.
Những thay đổi trong chế độ ăn giúp làm giảm acid uric trong máu. Vì purin bị biến đổi thành uric nên tránh những thức ăn có purin. Những thức ăn có nhiều purin bao gồm những loại giáp xác ( tôm, cua…), gan, não, thận động vật và bánh mì ngọt.
- Giảm cân có thể giúp ích trong việc giảm những đợt gút tái phát. Cách tốt nhất cho việc này là giảm chế độ ăn mỡ và thu nạp năng lượng kết hợp với chương trình tập thể dục đều đặn.
-Thuốc điều trị gút có 3 mặt. Ðầu tiên, thuốc giảm đau như acetaminophen (paracetamol) hoặc những thuốc giảm đau mạnh hơn được dùng. Thứ 2, thuốc kháng viêm như NSAIDS, colchicine, và corticosteroids được dùng để giảm viêm. Cuối cùng, thuốc làm phá vỡ sự chuyển hóa gây tăng acid uric và gút. Ðiều này có nghĩa là điều trị sao cho giảm acid uric trong máu.
- NSAIDS như indomethacin (Indocin) và naproxen(Naprosyn) là thuốc kháng viêm có hiệu quả trong gút cấp. Những thuốc này được giảm liều sau khi giải quyết viêm khớp. Tác dụng phụ bao gồm khó chịu bao tử, loét, ngay cả xuất huyết đường tiêu hóa. Những bịnh nhân có tiền sử dị ứng với aspirin hoặc polyp mũi nên tránh dùng thuốc NSAIDS vì sẽ có nguy cơ phản ứng phản vệ.
- Colchicine được dùng trong bịnh gút, thường bằng đường uống nhưng cũng có thể được cho bằng đường tĩnh mạch. Thuốc uống được cho mỗi một hoặc hai giờ cho đến khi cải thiện được triệu chứng hoặc bịnh nhân có tác dụng phụ như tiêu chảy nặng. Những tác dụng phụ thường khác của colchicine là buồn nôn và ói.
- Corticosteroids như prednisone là thuốc kháng viêm mạnh được dùng trong thời gian ngắn đối với bịnh gút. Chúng có thể cho trực tiếp bằng đường uống hoặc chích vào khớp viêm. Nó có thể cho với những bịnh nhân có vấn đề về thận, gan hay đường tiêu hóa. Sử dụng lâu dài corticosteroids thì không được khuyến khích vì tác dụng phụ trầm trọng của nó.
- Cùng với thuốc điều trị những cơn gút cấp thì những thuốc khác được dùng trong một thời kỳ dài để giảm mức acid uric. Hạ thấp mức acid uric trong máu là giảm nguy cơ gút tái phát, sỏi thận, bịnh thận cũng như giải quyết sự lắng đọng thành tophi.Thuốc làm thấp acid uric trong máu bằng cách hoặc làm tăng bài tiết nó qua thận hoặc làm giảm tạo thành acid uric từ purin trong thức ăn. Vì một số bịnh nhân có acid uric trong máu tăng nhưng không phát triển những cơn gút hoặc sỏi thận, vì thế có điều trị kéo dài với thuốc hạ thấp acid uric hay không tùy theo từng cá nhân cụ thể.
- Probenecid (Benemid) và sulfinpyrazone (Anturane) là thuốc thường được dùng để giảm acid uric bằng cách tăng thải acid uric qua thận. Trong một số trường hợp hiếm thì thuốc này có thể gây sỏi thận vì thế nó nên tránh dùng trong những bịnh nhân có tiền sử bị sỏi thận. Khi uống thuốc này nên uống thêm nhiều nước nhằm giúp thoát nhanh của acid uric ra khỏi đường niệu, tránh hình thành sỏi.
- Allopurinol(Zyloprim) hạ thấp acid uric trong máu bằng cách ngăn hình thành acid uric. Nó ngăn chặn việc biến đổi purin trong thức ăn thành acid uric. Những thuốc này nên cẩn thận trong những bịnh nhân có chức năng thận kém cũng như có nguy cơ phát triển phản ứng phụ như mẫn đỏ và tổn thương gan.
- Những thuốc hạ thấp acid uric như allopurinol (Zyloprim) tránh dùng cho những bịnh nhân đang có cơn gút cấp (trừ khi họ đang dùng nó rồi). Vì người ta chưa biết tại sao khi dùng thuốc này trong cơn cấp thì làm tình trạng viêm khớp trở nên tệ hơn. Tuy nhiên, những thuốc làm hạ acid uric trong máu thường dùng lúc tình trạng viêm khớp cấp đã được giải quyết. Còn nếu bịnh nhân đang dùng thuốc này rồi thì họ nên được duy trì ở liều đang dùng trong suốt thời gian có cơn gút cấp. Trong một số bịnh nhân tăng liều thuốc hạ thấp acid uric có thể thúc đẩy cơn gút cấp. Ở một số bịnh nhân giảm liều colchicine có thể ngăn ngừa được cơn gút cấp.
- Những cách làm tại nhà giúp giảm triệu chứng của cơn gút cấp bao gồm nghỉ ngơi, nâng cao chi có khớp bị viêm. Chườm đá có thể giúp giảm đau và giảm viêm. Bịnh nhân nên tránh dùng những thuốc có chứa aspirin vì chúng ngăn ngừa tiết acid uric.
Tương lai đối với gút và tăng acid uric trong máu ra sao ?
- Nhiều nghiên cứu đang tiếp tục phát triển trong nhiều lãnh vực liên quan với gút và tăng acid uric trong máu. Mới đây những nhà khoa học cho rằng, ăn nhiều protit động vật làm tăng nhẹ nguy cơ bịnh gút. Những nghiên cứu khác thì cho rằng chế độ ăn nhiều canxi giúp tránh được những cơn gút. Những thuốc mới làm gia tăng thải acid uric trong nước tiểu (như benzbromarone) đang được đánh giá trong những thử nghiệm lâm sàng trên bịnh nhân.
Việc áp dụng những thuốc này để điều trị những cơn gút cấp và mãn thì vẫn còn cần phải nghiên cứu thêm nữa. Những nhà khoa học sẽ tiếp tục phát triển các thuốc ít độc và hiệu quả hơn trong việc chống lại căn bệnh do "trừng phạt của tuổi tác gây ra" này.
Sơ lược về gút và tăng acid uric trong máu.
Viêm đau khớp của bịnh gút do sự lắng đọng những tinh thể acid uric trong mô khớp.
Xu hướng phát triển gút và tăng acid uric trong máu là do di truyền.
Gút và tăng acid uric có thể được thúc đẩy bởi béo phì, lên cân, uống rượu, cao huyết áp, bất thường về chức năng thận, và thuốc.
Cơn viêm khớp do thuốc có thể bị thúc đẩy bởi sự mất nước, chấn thương, sốt, ăn nhiều, uống nhiều rượu hoặc mới được phẫu thuật.
Hầu hết những test chẩn đoán xác định gút là tìm ra những tinh thể acid uric trong khớp, dịch và mô cơ thể.
Ðiều trị những cơn viêm khớp do gút khác với điều trị tăng acid uric trong máu.

bacsygiadinh.com

Cơn Gout cấp tính

Cơn gút cấp thường xảy ra sau bữa ăn có quá nhiều thịt (nhất là loại có nhiều purin như thịt chó, nội tạng), sau khi uống nhiều rượu. Cảm xúc mạnh, lao động nặng, đi lại nhiều, chấn thương (kể cả chấn thương nhỏ như đi giày chật), nhiễm khuẩn... cũng là những yếu tố làm cơn đau xuất hiện.
 Cơn gút cấp tính là một trong các biểu hiện lâm sàng của bệnh gút - một bệnh xảy ra do rối loạn chuyển hóa axit uric trong cơ thể, làm tăng nồng độ axit uric trong máu, dẫn đến lắng đọng natri urat trong khớp, thận và tổ chức dưới da, gây đau. Cơn gút cấp tính lần đầu thường xảy ra ở lứa tuổi 35-55, hay gặp ở nam giới. Nó đến đột ngột vào ban đêm, gây đau khớp, đa số là khớp bàn - ngón chân cái. Khớp sưng to, đỏ, phù nề, căng bóng, nóng, đau dữ dội và tăng dần, va chạm nhẹ cũng rất đau, thay đổi mọi tư thế đều không dịu đi.
Cơn đau kéo dài nhiều ngày, thường là 5-7 ngày, sau đó các dấu hiệu của viêm giảm dần. Trong cơn đau, người bệnh có thể sốt vừa hoặc sốt nhẹ, mệt mỏi, nước tiểu ít và đỏ. Cơn gút cấp tính dễ tái phát, thông thường 1-2 cơn mỗi năm, sau đó khoảng cách giữa các cơn ngắn lại, nhưng cũng có thể tới trên 10 năm mới tái phát.
Trong điều trị bệnh gút, chế độ ăn rất quan trọng; trong mọi bữa đều không nên ăn quá mức. Với những người đã tăng axit uric (trên 70 mg/l), cần tránh những bữa ăn có quá nhiều purin, người béo phải dùng chế độ giảm calo. Không uống rượu, uống nhiều nước (2-4 lít/ngày), nhất là loại nước có nhiều bicarbonat như nước khoáng.
Khi bị cơn gút cấp tính, phải dùng ngay thuốc chống viêm. Thuốc có hiệu lực tốt nhất là colchicin, uống 1 viên 1 mg x 2-3 lần trong ngày đầu (tối đa 4 viên); 1 viên x 2 lần trong ngày thứ hai và 1 viên/ngày trong 3 ngày tiếp theo. Liều duy trì để tránh cơn tái phát là 1 viên mỗi ngày, uống trong 3 tháng, 6 tháng, 1 năm hoặc dài hơn. Những người suy gan, suy thận, suy tủy xương cần thận trọng khi dùng thuốc và phải được sự theo dõi chặt chẽ của thày thuốc.
Ngoài colchicin, có thể dùng phenylbutazon hoặc indomethacin tuy chúng tác dụng có kém hơn. Những thuốc này cũng có tác dụng phụ không tốt, cần được thày thuốc hướng dẫn cụ thể.
Bacsigiadinh

Bệnh gút - chớ nên quá lo lắng, bi quan

Hỏi: Tôi năm nay 25 tuổi, đang mắc một căn bệnh khó chữa - bệnh gút. Lúc 14 tuổi bắt đầu cơn bệnh, đến mùa lạnh thì không thể chịu được vì các khớp chân bị sưng lên, các đầu ngón chân sưng và rất đau, từ đầu gối xuống khắp bàn chân thì nổi những nốt đỏ, có mủ, khi hết để lại vết sẹo thâm một thời gian dài. Đã 9 năm, nay lại tái phát. Tôi đã chữa trị bằng rất nhiều phương pháp, cả tây và đông y, nhưng những vết thâm trên chân không hết hẳn. Tôi rất đau khổ và chán nản. Tôi rất muốn ra nước ngoài làm việc nhưng lại sợ ở xứ lạnh căn bệnh này sẽ gây đau đớn. Xin bác sĩ giúp đỡ. (Y Nhi - Gò Vấp, TP.HCM)

Đáp: Bệnh gút là bệnh rối loạn chuyển hóa gây tăng lượng acid Uric trong máu, biểu hiện bằng viêm khớp, nổi u cục dưới da và quanh khớp, tổn thương thận và thường gặp ở nam giới tuổi trung niên. Bệnh có 2 thể:

1. Gút cấp tính: triệu chứnmg đặc trưng là cơn sưng tấy dữ dội ở khớp bàn ngón chân cái, cơn kéo dài vài ngày rồi khỏi nhưng bệnh rất hay tái phát, ngoài ra có thể đau ở các vị trí khác như cổ chân, khớp gối…

2. Gút mãn tính: đau ở khớp nhỏ và vừa, đối xứng. Biểu hiện:

+ Nổi u cục quanh khớp, dưới da, vành tai (hạt Troaphi); các u cục này mềm, không đau chứa một chất trắng như phấn.

+ Có thể tổn thương thận (sỏi tiết niệu, viêm thận kẽ).

Điều trị:

- Giai đoạn gút cấp tính:

* Cochicine 1mg uống ngày đầu 3 viên, ngày thứ hai uống ngày 2 viên chia 2 lần; từ ngày thứ ba trở đi uống ngày một viên cho đến khi hết đau.

* An thần nhẹ: Valium 1 viên /ngày, uống 3 ngày.

* Natri bicarbonat 3/1000: uống ngày 1-1,5 lít.

Sau đó chuyển sang chế độ điều trị dự phòng:


* Chế độ ăn uống hạn chế đạm, tôm, cua…

* Uống dung dịch kiềm Natri bicarbonat.

* Dùng thuốc tăng thải axit uric (Probenicid 300mg , 1- 3 viên /ngày)

- Gút mãn tính:

* Áp dụng chế độ ăn uống kiêng.

* Dùng dung dịch kiềm.

* Thuốc giảm tổng hợp axit uric: Alopurinol 100mg , uống 1-3 viên/ngày; Cochicine 1 viên/ngày. Thời gian điều trị tối thiểu 6 tháng.

Với những tiến bộ của ngành y dược, hiện có rất nhiều thuốc khống chế bệnh gút, bệnh không còn đáng sợ đến mức khủng khiếp như bạn nghĩ, do vậy đừng quá lo lắng, bi quan. Muốn điều trị khỏi bệnh phải chuẩn đoán đúng bệnh. Ngoài ra, tinh thần phấn chấn, lạc quan cũng góp phần đẩy lùi bệnh. Bệnh này ít liên quan thời tiết mà thường liên quan đến chế độ ăn uống cũng như rối loạn chuyển hóa vì vậy bạn cần được khám, chuẩn đoán chính xác bệnh (xét nghiệm axit uric trong máu, nước tiểu). Nên đi khám ở chuyên khoa khớp nếu cần cũng nên có ý kiến của chuyên khoa da liễu để chuẩn đoán đúng bệnh và có phác đồ điều trị phù hợp. Lưu ý: dùng thuốc phải kiên trì, đúng, đủ liều của bác sĩ).

Bs Bạch Long

Bệnh Thống Phong

Bệnh thống phong là một bệnh khớp phổ biến ở người đàn ông trung niên nhưng bị lầm với thấp khớp vì người ta ít nghĩ đến nó. Bệnh thống phong nằm trong nhóm bệnh khớp bị lắng đọng các tinh thể muối trong ổ khớp và các tổ chức quanh khớp.

Nguyên nhân:

Cơ thể người bệnh thống phong có sự chuyển hóa purin bị rối loạn. Chuyển hóa này giúp cơ thể phân hủy các axit nucleic nhân các tế bào bị già chết. Sản phẩm của quá trình này là axit uric. Acid uric có trong máu với nồng độ bình thường là 3 – 5 mg/100ml. Khi nồng độ này tăng thường xuyên sẽ tạo sự lắng đọng của axit uric dưới dạng tinh thể muối Natri urat ở sụn, xương, khớp hoặc thận. Lúc đó bệnh sẽ biểu hiện ra ngoài. Axit uric được thận bài tiết ra nước tiểu. Do đó, hai yếu tố chính làm axit uric tăng là tăng sản xuất axit uric (như chế độ ăn giàu purin, hiện tượng tăng phá hủy tế bào trong bệnh ác tính hay chấn thương…) giảm bài xuất axit uric (yếu thận, một số thuốc như aspirin, vitamin C hoặc rượu…)

Bệnh cảnh lâm sàng:

Bệnh khởi phát tự nhiên hoặc sau khi có những yếu tố thuận lợi như chấn thương, say rượu, dùng thuốc lợi tiểu (nước mát), phẫu thuật, cảm cúm, gắng sức… Khớp đau thường là khớp bàn ngón của ngón chân cái, cổ chân, gót chân hay khuỷu. Đôi khi là các khớp khác như gối bàn tay. Đặc điểm là chỉ đau một khớp. Khớp đau dữ dội khiến người bệnh không thể cử động được. Khớp sưng đỏ giống như bị sưng mủ. Cơn đau kéo dài 1 – 2 tuần nếu không điều trị. Xét nghiệm máu thấy axit uric tăng cao trên 7 mg/100ml. Chẩn đoán xác định bằng cách lấy dịch khớp đi soi sẽ thấy các tinh thể muối urat.

Cơn đau sau đó sẽ tái phát, đôi khi ở vị trí khác. Trên cơ thể xuất hiện các khối u mềm, căng gọi là tophi, trong có chứa chất bột trắng như phấn, đó là muối Natri urat. Các khối u này có thể bị vỡ ra tạo thành các ổ loét rất khó điều trị cho lành. Đôi khi làm độc có thể gây hoại tử chi hay đe dọa tính mạng. Đối với bệnh thống phong, người ta e ngại những biến chứng của nó gây ra trên khớp và thận hơn cả cơn đau kịch phát bởi vì đó là những tổn thương không hồi phục được. Chẳng hạn với khớp, nó làm hư mặt khớp và bao khớp. Do đó người bệnh cử động hay đi lại sẽ bị đau mà không có thuốc nào chữa khỏi trừ phi mổ chỉnh hình hoặc thay khớp giả. Trên thận, muối urát sẽ tạo thành sỏi thận. Hậu quả là gây ra suy thận cùng với các biến chứng của nó. Bệnh thống phong làm người ta đau khổ vì những cơn đau, tàn phế vì hư khớp xương, mòn mỏi vì suy thận. Vì thế cần được phát hiện sớm để điều trị trước khi có biến chứng.

CHIẾN LƯỢC ĐIỀU TRỊ

Điều trị bệnh thống phong cần phải phối hợp nhiều biện pháp đồng bộ. Nếu chỉ biết thuốc men thì chắc chắn sẽ không được hiệu quả.

Chế độ ăn uống

- Hạn chế ăn những loại thức ăn giàu purin như phủ tạng động vật, (gan, thận, não…) các loại đậu, thịt tươi đỏ… Một chế độ ăn thiếu thốn sẽ giúp làm giảm axít uric trong máu, đặc biệt đối với những bệnh nhân không thể uống thuốc điều trị.

- Bỏ hẳn đồ uống có cồn như rượu, bia, nước trái cây lên men… vì cồn làm giảm bài tiết axít uric qua thận, không nên uống các loại nước có tính lợi tiểu như nước ngọt có gas, trà, cà phê, nước mát nấu từ thực vật (rau má, mía lau rễ tranh…) vì nó có cơ chế làm giảm bài tiết axít uric qua nước tiểu.

- Không tự ý sử dụng một số loại thuốc sau: thuốc lợi tiểu, Aspirin, Vitamin C, thuốc kháng lao, Theophyline, Methyldopa.

- Những loại thức ăn và thuốc kể trên có thể gây ra các cơn đau kịch phát và làm bệnh tiến triển xấu đi.

Chế độ nghỉ ngơi

- Trong cơn đau tuyệt đối để khớp nghỉ ngơi bởi vì sự vận động làm phóng thích nhiều hơn các tinh thể muối urát vào trong khớp. Hậu quả là khớp sưng đau nhiều hơn. Tốt nhất là nằm nghỉ hoặc bất động bằng nẹp hay bột.

- Ngoài cơn đau cần phải có chế độ lao động và sinh hoạt thích hợp với tình trạng của khớp đau. Nếu làm quá sức sẽ làm khớp mau hư hơn.

- Chú ý không nên chườm nóng vì nó sẽ làm cơn đau tăng lên. Ngược lại đắp lạnh nhiều khi làm giảm đau rõ rệt.

Chế độ thuốc điều trị

Có hai nhóm thuốc chủ yếu trong điều trị thống phong.

1/ Cắt cơn đau cấp tính

- Kháng viêm NSAID: giảm đau cấp thời của tình trạng viêm hoạt mạc cấp tính.

- Colchicine (Colchimax): đây là thuốc điều trị kinh điển cho cơn đau thống phong cấp. Gần đây, người ta thấy hiệu quả của nó kém hơn NSAID. Hơn nữa, nó còn gây tác dụng phụ như tiêu chảy, buồn nôn làm người bệnh rất khó chịu.

2/ Giảm nồng độ acid uric:

- Allopurinol (Zyloric): làm giảm sản xuất acid uric. Vì đây là thuốc uống dài ngày nên cần chú ý tác dụng phụ của nó như làm giảm bạch cầu hạt…

- Probenecid: tăng thải trừ acid uric qua nước tiểu. Vì thế có thể làm tăng nguy cơ sỏi thận do lắng đọng tinh thể muối urát.

3/ Một số thuốc khác:

- Corticoid chích tại chỗ: khi sưng nhiều hoặc không uống được các thuốc khác được.

- Prednisone và ACTH: dùng trong các trường hợp nặng đau nhiều khớp.

- Griseofulvin: đôi khi khá hiệu quả trong cơn đau cấp.

- Sulfinpyrazone: tăng thải trừ acid uric qua thận. Thuốc có nhiều tác dụng phụ nên ngày nay ít dùng.

Tóm lại, chiến lược điều trị là cắt cơn đau cấp bằng thuốc, nghỉ ngơi cho khớp, loại trừ các yếu tố nguy cơ trong ăn uống và thuốc men. Sau đó, dùng thuốc làm giảm nồng độ acid uric trong máu, chế độ ăn uống kiêng thích hợp. Các bài tập VLTL cho khớp đau.

Như vậy, một chế độ ăn điều độ, nhiều rau quả sẽ giúp chúng ta tránh được căn bệnh thống phong nguy hiểm.

BS. Huỳnh Bá Lĩnh

Thống phong - dấu hiệu ban đầu của bệnh tim

Bệnh thống phong là hiện tượng tích tụ axit uric và muối urate trong máu và khớp, do sự rối loạn chuyển hóa axit uric gây nên. Người trung niên bị bệnh thống phong rất dễ tăng huyết áp và cholesterol - những yếu tố nguy hiểm đe dọa sức khỏe tim mạch.
Bệnh thống phong, còn gọi là bệnh gout, thường gặp ở những người lạm dụng quá mức các loại thực phẩm giàu protein như gan, thận, cá mòi... và rượu. Trước đây, nó được coi là bệnh của nhà giàu vì chỉ tầng lớp khá giả mới được thưởng thức những món ăn này. Trong những năm gần đây, ngày càng nhiều người mắc bệnh gout do tỷ lệ béo phì tăng nhanh. Bệnh gây nên các cơn viêm khớp thống phong cấp, phá hủy mãn tính khớp và lắng đọng muối urate tạo thành sạn urate ở da, sụn. Trong trường hợp có quá nhiều urate, thận sẽ bị tổn thương và xuất hiện sỏi thận.
Không những thế, thống phong còn có thể là dấu hiệu ban đầu của bệnh tim ở những người không có tiền sử bệnh, tiến sĩ Eloy van de Lisdonk thuộc Đại học Nijmegen (Hà Lan), nhận định.
Khi so sánh 261 bệnh nhân từng trải qua một cơn viêm khớp thống phong cấp đầu tiên và khoảng 500 người khỏe mạnh, Lisdonk nhận thấy:
- 43% bệnh nhân thống phong bị huyết áp cao, trong khi tỷ lệ này ở nhóm khỏe mạnh chỉ là 18%.
- Lượng cholesterol trong máu ở nhóm bệnh nhân thống phong cao hơn nhóm khỏe mạnh.
- Cứ 20 bệnh nhân thống phong thì có 1 người bị tiểu đường, trong khi tỷ lệ này ở nhóm bình thường là 1/100.
- Hơn một nửa bệnh nhân thống phong bị béo phì, trong khi chỉ có 1/3 nhóm khỏe mạnh chịu chung hoàn cảnh.
Kết quả trên cho thấy nguy cơ mắc bệnh tim ở những người bị thống phong rất cao. "Bệnh không trực tiếp gây nguy hiểm cho sức khỏe tim mạch, song nó có thể là dấu hiệu ban đầu", Lisdonk nói.
Biện pháp điều trị bệnh thống phong hiện nay là dùng thuốc tăng bài tiết urate, hoặc thuốc làm chậm quá trình tạo thành sạn urate. Ngoài ra, có thể phòng bệnh bằng cách hạn chế ăn các loại thịt đỏ, đồ biển (con trai, cá trích, cá mòi...) và uống ít rượu đỏ, bia.
Theo BBC

Chẩn đoán sớm bệnh gout

Xin hỏi : Chúng ta thường phát hiện ra bệnh gút khá muộn. Xin hỏi Bác sĩ làm sao để sớm phát hiện căn bệnh này?

Bs: Trong những năm gần đây, bệnh gout ngày càng đựợc các bác sĩ và cả người bệnh quan tâm, do vậy bệnh thường được phát hiện từ rất sớm, ngay khi bệnh nhân có những triệu chứng đầu tiên, thậm chí có những nơi làm các xét nghiệm tầm soát bệnh gout cho cả những đối tượng có khả năng sẽ mắc bệnh (bệnh nhân trên 40 tuổi, có béo phì hoặc thừa cân, có tăng huyết áp, rối loạn lipid máu...).Chẩn đoán bệnh gout khá đơn giản bằng cách làm xét nghiệm acid uric máu. Như vậy, nếu bạn trên 30 - 40 tuổi, có triệu chứng đau khớp, đặc biệt sưng đau khớp bàn ngón chân cái, thì có nhiều khả năng bạn mắc bệnh này và bạn cần làm xét nghiệm acid uric máu để xác định chẩn đoán. Nếu bạn thừa cân, tăng huyết áp, tăng lipid máu... và tình cờ xét nghiệm máu có acid uric tăng cao thì cho dù bạn không hề có triệu chứng đau khớp cũng cần phải tuân thủ chế độ ăn như của bệnh nhân gout, và cần uống các thuốc hạ acid uric máu. Những đối tượng này trong tương lai có thể sẽ xuất hiện sưng đau khớp, là triệu chứng thường gặp đầu tiên của bệnh gout.

Xin hỏi :Tôi phải đi khám ở đâu ? Tôi hiện đang sống ở TP Hồ Chí Minh, Xin cho biết một địa chỉ phòng mạch chuyên về gút.

Bs: Nếu bạn thuộc đối tượng có nguy cơ mắc bệnh, bạn có thể đi khám bệnh tại phòng khám của bất kỳ bệnh viện nào trong thành phố, và nếu cần bạn sẽ được nhập viện để điều trị bệnh tại khoa khớp của bệnh viện đó.

Bác sĩ Nguyễn Thu Giang

Chứng tăng axít uric máu

Chứng tăng axit uric máu (trên 416 mmol/l) thông thường gặp ở người cao tuổi, tuy nhiên thỉnh thoảng gặp ở những lứa tuổi khá. Trước đây, người ta cho rằng, tăng axit uric máu chỉ gặp ở người mắc bệnh gút (gout), nhưng thực ra, chứng này còn có thể xuất hiện trong một số bệnh khác nhau.

Bệnh gút là một gệnh làm tăng axit uric máu và thường gặp nhất trong nhóm bệnh khớp. Hiện nay, một số tuyến cơ sở còn ít biết về bệnh này. Tăng axit uric máu là do rối loạn chuyển hoá purine. Bình thường axit uric được tạo ra trong quá trình chuyển hoá các axit nhân của mọi tế bào trong cơ thể và được đào thải ra ngoài chủ yếu bằng nước tiểu. Ở người bình thường, hai quá trình tạo ra và đào thải axit uric luôn luôn được cân bằng và duy trì ở mức từ 143 - 416 mmol/lít. Vì một lý do nào đó, quá trình chuyển hoá purine bị rối loạn sẽ gây tăng axit uric trong máu.

Ai có thể bị tăng axit uric máu?

- Những người đã và đang mắc bệnh gút

- Những người nghi ngờ mắc bệnh gút, gồm có các triệu chứng viêm, đau cấp tính các khớp như: khớp gối, khớp ngón chân cái, khớp cổ chân... cũng cần lưu ý rằng có một số trường hợp tuy mắc bệnh gút nhưng chưa tăng axit uric máu, cần xét nghiệm nhiều lần mới phát hiện được.

- Người bị sỏi thận.

- Người suy thận mạn tính.

Đó là những loại bệnh có khả năng làm tăng tổng hợp và giảm thải axit uric qua đường thận.

Điều trị

- Người đang dùng hay đã dùng thuốc lợi tiểu loại Thiazid hay loại Furosemid cũng dễ bị tăng axit uric. Các loại này chỉ làm tăng axit uric máu trong khi dùng thuốc và sau một thời gian ngắn dùng các loại thuốc này, do đó không cần can thiệp làm giảm axit uric máu.

Không phải tất cả các trường hợp tăng axit uric máu đều phải điều trị. Có hơn 90% các trường hợp tăng axit uric máu đơn thuần và chỉ có khoảng 5 - 10% có biểu hiện lâm sàng bệnh gút và một số bệnh khác. Những loại bệnh sau đây cần điều trị làm giảm axit uric máu:

- Bệnh gút có sạn dạng urat.

- Bệnh gút có biến chứng gây suy thận cấp.

- Sỏi đường tiết niệu dạng urat (sỏi thận, sỏi niệu quản, sỏi bàng quang, sỏi niệu đạo).

Như vậy, khi xét nghiệm máu thấy có hiện tượng tăng axit uric (trên 416 mmol/l) cần tìm hiểu các nguyên nhân có liên quan đến chứng tăng axit uric máu để loại dần và có hướng điều trị thích hợp.

Hiện nay thuốc dùng cho điều trị chứng tăng axit uric máu khá dồi dào nhưng điều quan trọng là phải chẩn đoán đúng bệnh và có chỉ định thích hợp mới đưa lại hiệu quả. Ngoài việc khám, chẩn đoán đúng và cho điều trị đúng phác đồ thì ăn uống cũng rất cần được quan tâm, bởi vì có những loại thực phẩm làm tăng lượng axit uric máu một cách đáng kể.

PGS. TS. BS: BÙI KHẮC HẬU

Bệnh gout có chữa khỏi được không?

Hỏi : Có người nói bệnh gout không có thuốc nào chữa khỏi, như vậy có dúng không?. Tôi bị bệnh gout nhiều năm nay,mặc dù dã diều trị bằng các loại thuốc như cochisin, Alloporinol, nhưng hàng tháng vãn cứ đau một lần.vậy phải diều trị thuốc gi nữa dể bệnh khỏi hẳn. Xin cám ơn bác sĩ vungo...@

Trả lời: Điều trị bệnh gout bên cạnh việc dùng thuốc cần tuân thủ chế độ ăn uống và sinh hoạt khá nghiêm ngặt. Bệnh dễ tái phát sau một bữa ăn nhiều rượu, thịt, sau chấn thương tâm lý (căng thẳng, lo lắng kéo dài…), sau nhiễm khuẩn, sau lao động nặng hoặc sau khi dùng một số thuốc như thuốc kháng lao, thuốc lợi tiểu….Vì vậy ngoài các thuốc uống theo toa, người bệnh cần chú ý tránh các hoàn cảnh thuận lợi gây bệnh như đã nói trên.

Bác sỹ Nguyễn Thu Giang

Bị gout có nên mang thai ?

Hỏi : Tôi đang bị bệnh gout, 30 tuổi, và dự định có thai. Xin Bác sĩ cho khi có thai thì có ảnh hưởng gì đến sức khoẻ của tôi và thai nhi không. Mong thư Bác sĩ nguyen...@

Trả lời: Viêm khớp do gout ít gặp ở phụ nữ. Bạn cần xem lại chẩn đoán. Nếu chắc chắn bạn được chẩn đoán đang mặc bệnh gout và đang phải điều trị bệnh thì phải chờ đến khi điều trị ổn định mới nên có thai, vì các thuốc điều trị bệnh gout hầu hết đều ảnh hưởng đến thai nhi.

Bác sỹ Nguyễn Thu Giang

Gout - bệnh của quý ông "tốt tướng"

Đây là căn bệnh thiên vị đặc biệt: dường như hoàn toàn tha cho quý bà mà chỉ thăm viếng quý ông. Tuy nhiên, các quý bà lại là người đầu tiên nên biết về chứng bệnh nguy hiểm này để phòng ngừa từ trong gian bếp cho chồng mình.

Gout, dân gian hay gọi là bệnh gút hay thống phong, là bệnh được biết và mô tả từ thời Hy Lạp cổ. Ngay từ thế kỉ 4 trước Công Nguyên, Hyppocrates đã mô tả một biểu hiện rất đặc trưng của bệnh sưng tấy, nóng, đỏ và rất đau ở ngón chân cái, ông còn gọi bệnh Gout là "Vua của các bệnh" và "bệnh của các vua".

Bệnh Gout thường chỉ xuất hiện ở nam giới tuổi trung niên. Nguyên nhân gây bệnh là tình trạng thừa axit uric (trên 1mg/1 cc máu) do cơ thể được cung cấp quá nhiều chất đạm. Lượng axit uric sẽ kết lại thành các tinh thể đóng ở các khớp, gây đau.

Tuy nhiên không phải cứ có axit uric cao là bị bệnh Gout. Nếu chỉ có axit uric máu cao đơn thuần, chỉ được gọi là tình trạng tăng axit uric máu không triệu chứng. Bênh Gout chỉ xảy ra khi tình trạng tăng axit uric máu gây hậu quả xấu cho cơ thể.

Hậu quả trước mắt là các đợt viêm khớp Gout cấp - nỗi kinh hoàng cho những ai bị Gout, tuy nhiên ở giai đoạn đầu các đợt viêm này thường không kéo dài, không thường xuyên và rất dễ chữa. Nếu bệnh không được điều trị đúng và đủ, các đợt viêm khớp sẽ xuất hiện thường xuyên hơn và kéo dài hơn, khó chữa hơn và hậu quả lâu dài, cố định của bệnh sẽ là viêm nhiều khớp, xuất hiện nhiều u cục quanh khớp, cứng khớp, biến dạng khớp, tàn phế, sỏi hệ tiết niệu, đặc biệt là sỏi thận và nguy hiểm hơn cả là suy chức năng thận. Đây là nguyên nhân chính làm giảm tuổi thọ của các bệnh nhân Gout.


Những ai dễ bị Gout?

Theo thống kê, tỷ lệ mắc bệnh là 0,3% dân số người lớn, nghĩa là cứ 330 người lớn thì có một người mắc bệnh Gout. Bệnh thường gặp ở nam giới (trên 95%), khỏe mạnh, mập mạp, dân gian thường gọi là "tốt tướng". Phụ nữ rất ít bị bệnh Gout, nếu bị thường là lứa tuổi trên 60.


Thường nhất là bắt đầu vào cuối tuổi 30 và đầu 40 của cuộc đời, với những người có cuộc sống vật chất sung túc, dư thừa dinh dưỡng.


Vì hai đặc điểm này mà các vị giám đốc trẻ, hay những người đàn ông thành đạt nói chung nên lưu tâm hơn về căn bệnh này.


Gout là một bệnh khớp do rối loạn chuyển hóa, bệnh nhân Gout thường thừa cân, thường mắc thêm một hay nhiều bệnh như: Xơ vữa động mạch, rối loạn chuyển hóa mỡ, tiểu đường, rối loạn lipid máu, cao huyết áp, bệnh mạch vành, bệnh mạch não...Nói cách khác, các bệnh nhân bị cách bệnh nói trên rất dễ bị Gout.


Làm sao biết mình bị Gout?

Bệnh khởi phát cấp tính, thường vào nửa đêm gần sáng, với tính chất sưng tấy, nóng, đỏ mọng, đau dữ dội và đột ngột ở một khớp (không đối xứng). Thường gặp nhất ở ngón chân cái, kế đó là khớp bàn chân, khớp cổ chân, các ngón chân khác, khớp gối, bàn tay và các khớp và các vùng gần khớp khác.


Có thể có kèm một số triệu chứng toàn thân như sốt cao, lạnh run, ớn lạnh...Thậm chí, một số trường hợp gây nhức đầu, ói mửa, cổ gượng (do phản ứng màng não).


Hiện tượng viêm cấp tuy rất rầm rộ nhưng cũng chỉ kéo dài 5-10 ngày, rồi khỏi toàn thân, không để lại di chứng gì tại khớp. Nếu được dùng thuốc sớm, đúng thuốc, đúng liều lượng bệnh sẽ hết rất nhanh (dưới 5 ngày).


Bệnh tái phát từng đợt với xu hướng càng ngày càng nhiều đợt viêm hơn, các đợt viêm khớp ngày càng dài ra, càng lâu khỏi hơn, càng có nhiều khớp bị viêm hơn...


Gout nguy hiểm đến mức nào?

Hậu quả trước mắt là các đợt viêm khớp Gout cấp - nỗi kinh hoàng cho những ai bị Gout, tuy nhiên ở giai đoạn đầu các đợt viêm này thường không kéo dài, không thường xuyên và rất dễ chữa. Nếu bệnh không được điều trị đúng và đủ, các đợt viêm khớp sẽ xuất hiện thường xuyên hơn, kéo dài hơn, khó chữa hơn và hậu quả lâu dài, cố định của bệnh sẽ là viêm nhiều khớp, xuất hiện nhiều u cục quanh khớp, cứng khớp, biến dạng khớp, tàn phế, sỏi hệ tiết liệu đặc biệt là sỏi thận nguy hiểm hơn cả là suy chức năng thận, đây là nguyên nhân chính làm giảm tuổi thọ của các bệnh nhân Gout.


Với những hiểu biết hiện nay về bệnh Gout, với những phương tiện và thuốc men hiện có, bệnh Gout được coi là bệnh dễ chuẩn đoán, có thể chuẩn đoán sớm và có thể điều trị đạt kết quả cao. Tuy nhiên trên thực tế ở nước ta, mọi việc hầu như bị đảo ngược và lý do cơ bản là sự thiếu hụt kiến thức về một bệnh lý thường gặp. Sự thiếu hụt kiến thức này không chỉ ở cộng đồng, ở người bệnh mà còn ở cả nhiều thầy thuốc (hay bị chẩn đoán nhầm là nhiễm trùng và cho uống thuốc kháng sinh hoặc chuẩn đoán chung chung vô nghĩa là thấp khớp, viêm đa khớp). Chính sự thiếu hụt kiến thức này đã biến một bệnh dễ chuẩn đoán, dễ chữa thành bệnh nan y! Và khi đã thành nan y thì nguy cơ tử vong là rất gần trong nhiều trường hợp.

Bệnh Gout có dễ chữa hay không?
Hiện đã có thuốc chữa bệnh gút nhưng chỉ có tác dụng ở giai đoạn sớm. Thường chỉ nửa ngày sau khi uống thuốc, các triệu chứng bệnh sẽ rút hết. Nhưng nếu bệnh nhân không kiêng cữ đúng mức, bệnh sẽ tái phát. Điều đó có nghĩa là, hiện nay chưa có thuốc nào điều trị được tận gốc căn bệnh.

Bệnh nhân Gout có thể dùng làm thuốc Colchicin để chống viêm và Allopurinol để làm giảm nồng độ axit uric trong máu (theo chỉ định của bác sĩ). Tuy nhiên, điều quan trọng nhất vẫn là dự phong bằng cách thực hiện chế độ dinh dưỡng hợp lý, tránh ăn thức ăn giàu đạm và uống nhiều rượu bia.